Giúp dân dựng nước xiết bao công trình
Văn hóa - Thể thao 22/12/2023 13:30
Hoàng đế Quang Trung là người thống nhất đất nước sau 300 năm bị chia cắt với cục diện Nam Triều - Bắc Triều, Đàng Trong - Đàng Ngoài với chiến công đánh bại chúa Nguyễn, chúa Trịnh, quét sạch quân xâm lược Xiêm La, Mãn Thanh ra khỏi đất nước, thu giang sơn về một mối.
Ngày 22/12/1788, tại núi Bân ở Huế, danh tướng thiên tài Nguyễn Huệ đã cho lập đàn tế cáo trời đất và làm lễ đăng quang lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Sau khi lên ngôi, Hoàng đế Quang Trung đã quản lí đất nước trên một phạm vi rộng lớn dưới một chính quyền trung ương tập trung mạnh. Bộ máy hành chính thời Hoàng đế Quang Trung đã được nhanh chóng hoàn thiện. Năm 1790, Hoàng đế Quang Trung còn cho lập sổ theo dõi nhân khẩu (hay hộ khẩu), cũng có ý định chọn Nghệ An làm Phượng Hoàng Trung Đô để nêu bật ý nghĩa của triều đại mới.
Tượng đài Hoàng đế Quang Trung ở Huế. |
Sau khi lên ngôi, Hoàng đế Quang Trung cũng đã ban chiếu khuyến nông. Năm 1789, Hoàng đế Quang Trung bãi bỏ thuế điền cho dân từ sông Gianh ra Bắc, động viên các tầng lớp Nhân dân lao động phấn khởi sản xuất. Do đó, chỉ trong vòng 3 năm sau, nông nghiệp được phục hồi. Năm 1791, sử sách chép: Mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình.
Trong công cuộc xây dựng chính quyền mới, Hoàng đế Quang Trung rất chú trọng cầu hiền tài. Đối với những nho sĩ, trí thức, kể cả quan lại trong chính quyền cũ có tài năng, trí tuệ, có nhiệt tình xây dựng đất nước, Hoàng đế Quang Trung đều cố gắng thuyết phục và sử dụng họ vào bộ máy nhà nước mới, đặt họ ở những chức vụ cao tương xứng với tài năng của họ. Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp,... là những học giả tiêu biểu trong số nho sĩ này.
Để đáp ứng nhu cầu xây dựng chính quyền mới và đào tạo quan lại mới, bên cạnh phương thức ?tiến cử, ?cầu hiền tài, Hoàng đế Quang Trung đã ban hành chính sách khuyến học, mở rộng chế độ học tập, thi cử. Trường học được mở rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử dụng một số đền chùa không cần thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học từ chương khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh, sinh đồ ở các triều đại trước phải thi lại. Người nào xếp loại ưu thì mới được công nhận cho đỗ, hạng liệt phải về học lại, còn hạng sinh đồ 8 quan do bỏ tiền ra mua trước đó (thời Lê - Trịnh) đều bị đuổi về chịu lao dịch như dân chúng. Để đề cao quốc gia dân tộc, Hoàng đế Quang Trung bỏ Hán ngữ như là ngôn ngữ chính thức trong các văn bản của quốc gia. Ngôn ngữ chính thức được sử dụng là tiếng Việt và được viết trong các văn kiện hành chính bằng hệ thống chữ Nôm.
Đối với nước ngoài, Hoàng đế Quang Trung chủ trương mở rộng trao đổi buôn bán, đấu tranh buộc nhà Thanh phải mở cửa biên giới để buôn bán với nước ta. Đối với thuyền buôn của các nước tư bản phương Tây, Hoàng đế Quang Trung tỏ ra rộng rãi, mong muốn họ tăng cường quan hệ ngoại thương với nước ta, nhờ vậy, tình hình thương nghiệp (nội thương và ngoại thương) nước ta được phục hưng và phát triển. Tư tưởng thông thương tiến bộ của Hoàng đế Quang Trung đã thể hiện nhãn quan kinh tế rộng mở phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại, đó là mở cửa ải, thông thuơng buôn bán, khiến cho các hàng hoá không ngừng chuyển động để làm lợi cho dân. Để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá thuận lợi, Hoàng đế Quang Trung còn cho đúc tiền đồng mới (Quang Trung thông bảo và Quang Trung đại bảo).
Mô tả Thăng Long bấy giờ, nhà nho Nguyễn Huy Lượng, sống dưới thời Tây Sơn viết: “Lò Thạch khối khói tuôn nghi ngút, thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm, lửa đom đóm nhen năm xã gây lò, và rập rình cuối bãi đuôi nheo, thuyền thương khách hãy nhen buồm bươm bướm” (Phú tụng Tây Hồ).