Về thăm nơi thờ danh tướng Yết Kiêu
Văn hóa - Thể thao 27/08/2019 09:06
Sau khi làng xóm hình thành, đời sống vật chất của Nhân dân ổn định thì nếp sống văn hóa cổ truyền được khôi phục và phát triển. Xuân thu nhị kì, làng mở hội, tổ chức các trò chơi dân gian như đánh võ, đấu vật, chọi gà, đánh cờ tướng, đua thuyền… Các đội văn nghệ, các chiếng chèo, tiếng đàn tranh, giọng hát chầu văn vang lên rộn ràng. Các làng đua nhau xây đình, dựng chùa, đền miếu… thờ cúng các danh nhân. Dân làng đầu tư tiền của và công sức xây được 2 ngôi đình, 2 chùa, 1 nhà xứ , 4 nhà thờ họ và 16 từ đường.
Đình Bồng Tiên, đình Bồng Lai đều thờ đức thành hoàng là danh tướng Yết Kiêu. Tương truyền: Vùng đất Bồng Tiên, Thái Lai xưa gắn bó với tướng Yết Kiêu trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên (1258-1288). Danh tướng Yết Kiêu vâng lệnh vua Trần, về vùng đất này tuyển chọn trai tráng bổ sung vào đội quân chống giặc Thát, chính Yết Kiêu đã tổ chức luyện quân ở nơi này. Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông toàn thắng, khi luận công, Yết Kiêu được phong thực ấp ở đây. Khi Ngài qua đời, dân Bồng Tiên, Thái Lai tôn Yết Kiêu làm thành hoàng làng và thờ phụng trong đình.
Hậu cung đình Bồng Tiên, nơi thờ danh tướng Yết Kiêu |
Đình làng Bồng Tiên và đình làng Bồng Lai đều có cấu trúc giống nhau, theo kiểu “Nội công, ngoại quốc”. Đình có ba cung: Cung cấm thờ chính vị thần hoàng, có tượng đồng danh tướng lấy nguyên mẫu từ đền Quát, làng Hạ Bì, huyện Gia Lộc, Hải Dương. Một chiếc ngai sơn son thếp vàng, đặt chiếc mũ mạ vàng của danh tướng Yết Kiêu. Trên nóc tòa cung cấm có bức đại tự mang ba chữ nho: “Võ linh tướng”. Cung giữa là nơi để kiệu bát cống, long đình, bát bửu, cờ thần. Cả ba cung đều có các bức đại tự sơn son thếp vàng, nêu rõ công trạng của danh tướng triều Trần. Hai bên cột đình được treo nhiều câu đối. Cung ngoài dành cho dân làng tụ hội, chuẩn bị lễ vật hương đăng vào cung trong dâng cúng thành hoàng. Cả hai ngôi đình đều được Sở Văn hóa và Thông tin tỉnh Thái Bình cấp bằng “Di tích lịch sử văn hóa” năm 1992.
Về Vũ Tiến lần này, chúng tôi đến thăm lại đình Bồng Tiên, được gặp ông Trần Xuân Chưởng, cựu Chủ tịch UBND xã; anh Trần Văn Mão - Trưởng đài truyền thanh xã; các cụ: Trần Quyết Chiến - Phó Trưởng ban quản lí di tích xã, Trưởng ban khánh tiết đình Bồng Tiên; cụ Trần Xuân Khuê, Thủ từ và đặc biệt là cụ Trần Vũ Dực, người rất tâm huyết với việc trùng tu di sản, đã tiến cúng vào đình Bồng Tiên toàn bộ hệ thống cổng đình, cửa tam quan, năm bộ cửa lim của gian tiền tế. Gia đình cụ Dực đã thành tâm công đức vào đình Bồng Tiên bức tượng danh tướng Yết Kiêu bằng đồng nguyên khối.
Các bậc cao niên ở làng Bồng Tiên thường kể cho con cháu nghe chuyện lịch sử dựng đình và lai lịch đức thành hoàng làng. Danh tướng Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, người làng Hạ Bì, nay là xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc. Ông là gia nô trung thành và cận vệ đắc lực của Quốc công tiết chế Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Từ nhỏ, ông phải lăn lộn trên sông nước, mò cua bắt ốc, kiếm sống và nuôi cha bệnh tật. Một hôm, thấy hai con trâu trắng đang húc nhau, ông dùng đòn ống can ngăn, cả hai con trâu cùng nhảy xuống sông và biến mất. Biết đấy là hai con trâu thần, lại thấy hai chiếc lông dính vào đòn ống, đặt xuống nước, nước rẽ ra làm đôi, ông liền nuốt ngay vào bụng. Từ đó Phạm Hữu Thế bơi lặn giỏi, lội dưới nước hàng mấy trăm dặm như đi trên đất liền. Ông được Trần Hưng Đạo đặt tên là Yết Kiêu, theo tên một loài kình ngư ở biển thời xưa. Chính nhờ tài bơi lặn mà Yết Kiêu thường xuyên lặn xuống biển, dùng dùi sắt đục thủng thuyền giặc, khiến quân Nguyên bạt vía kinh hồn. Giặc chăng lưới bắt được Yết Kiêu, chúng hỏi ông: “Người có tài bơi lặn giỏi như mày ở nước Nam có bao nhiêu?” Yết Kiêu dõng dạc đáp: “Nước Nam có rất nhiều người bơi lặn giỏi như tôi. Hiện nay họ vẫn ẩn nấp ở dưới biển để đục thuyền giặc. Chỉ một mình tôi chẳng may bị bắt. Nếu các ông thả tôi ra, tôi sẽ dẫn các ông đến chỗ họ ẩn nấp, tha hồ cho các ông bắt”. Bọn giặc hí hửng, chúng lấy một chiếc thuyền nhẹ chở ông đi. Thừa lúc giặc sơ ý, ông nhảy ùm xuống biển, lặn trốn về doanh trại, tiếp tục cùng quân dân ta đánh giặc, cứu nước.
Yết Kiêu với tài bơi lội, có nhiều công lao lớn, được vua Trần ban danh hiệu “Trần triều đệ nhất đô soái thủy quân”.
Nhiều sách chép: Yết Kiêu và Dã Tượng là hai gia nô trung thành của Hưng Đạo đại vương. Khi quân Nguyên tới, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân, Dã Tượng đi theo Hưng Đạo. Khi quân ta thua chạy, thủy quân tan tác, Hưng Đạo định rút theo lối chân núi, Dã Tượng vội nói: “Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì nhất định không rời thuyền”. Hưng Đạo đại vương đến Bãi Tân, thấy thuyền của Yết Kiêu còn đó, Đại Vương vui mừng nói: “Chim Hồng Hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh”. Vương nói xong câu đó thì chèo thuyền đi. Kị binh Nguyên Mông đuổi theo không kịp. Hưng Đạo đại vương rút về Vạn Kiếp, chia quân đón giữ ở Bắc Giang.