Du Xuân Đền Kiếp Bạc nhớ công ơn Hưng Đạo Đại Vương
Văn hóa - Thể thao 07/02/2023 11:13
Lừng lẫy công trạng
Mùa Xuân này, chúng tôi có dịp về thăm Đền Kiếp Bạc vào buổi chiều tà dưới cái lạnh buốt và sự giao thoa giữa ngày và đêm cùng những làn khói nhang thành kính của người dân dâng lên đấng tối cao, càng làm cho không gian ở đây thêm linh thiêng…
Nhắc đến Hưng Đạo Đại Vương, xin sơ lược về công trạng của Ngài như sau: Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, tước hiệu Hưng Đạo Đại Vương, là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Trần Hưng Đạo là con của An Sinh Vương Trần Liễu, cháu ruột vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh). Ông sinh ngày 10/12 âm lịch (chưa rõ năm sinh). Căn cứ vào gia phả họ Trần cùng các thư tịch Hán Nôm, có nhiều giả thuyết khác nhau về năm sinh của ông. Tuy nhiên, dựa vào tuổi thân sinh phụ mẫu, anh trai, năm lập gia đình và năm tham gia trận mạc, các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết ông sinh vào khoảng năm 1230 đến 1234, tức đầu những năm nhà Trần khởi nghiệp.
Nghi môn đền Kiếp Bạc. |
Trong ba lần quân và dân Đại Việt tiến hành cuộc kháng chiến đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông ở thế kỉ XIII, Trần Hưng Đạo có vai trò đặc biệt quan trọng. Ông là một nhà chính trị - quân sự đại tài, được nhà vua tin cậy, giao quyền. Năm 1257, ông được vua Trần Thái Tông phong làm đại tướng. Khi quân Mông Cổ xâm lược lần thứ nhất (1258), ông chỉ huy các tướng lĩnh điều quân thủy, bộ bảo vệ vùng biên giới Tây Bắc, đánh tan quân xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288), ông được phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội cả nước (thời gian này Mông Cổ đã chinh phục nhà Nguyên để thống nhất Trung Hoa).
Và hậu sinh chúng ta càng tự hào khi nhắc đến những chiến công oanh liệt ở Hàm Tử, Chương Dương, Vạn Kiếp, Tây Kết… trong cuộc kháng chiến lần thứ hai và những chiến thắng ở Vân Đồn, rồi trận địa giăng cọc gỗ trên sông Bạch Đằng lừng lẫy theo chiến thuật của Ngô Quyền ở cuộc kháng chiến lần thứ ba, buộc quân xâm lược phương Bắc phải rút về nước và vĩnh viễn từ bỏ tham vọng thôn tính phương Nam, đều ghi dấu ấn nổi bật về tài thao lược quân sự của Trần Hưng Đạo.
Tháng 4 năm Kỷ Sửu (1289), vua Trần Nhân Tông phong cho ông làm Hưng Đạo Đại Vương. Ông là một vị danh tướng kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, đồng thời rất biết trọng dụng nhân tài quân sự, tiêu biểu, dưới trướng ông có các vị tướng tài ba lừng danh, như: Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng… được lưu danh thiên cổ với nhiều sự tích, truyền thuyết nổi tiếng.
Theo Nguyễn Huệ Chi, mục từ “Trần Quốc Tuấn” trong Từ điển văn học(bộ mới), Nhà xuất bản (NXB) Thế giới, 2004, trang 1799. Cả cuộc đời Trần Hưng Đạo cống hiến vì đất nước. Ông luôn đặt lợi ích của dân tộc, đất nước trên lợi ích của bản thân, gạt bỏ tình riêng để tăng cường khối đoàn kết giữa tôn tộc nhà Trần, để tạo cho thế nước đủ sức đè bẹp quân thù nguy hiểm. Đến khi an nghỉ tuổi già tại thái ấp riêng với cuộc sống bình dị, ông vẫn luôn canh cánh về mối an nguy quốc gia trước giặc phương Bắc và hiến nhiều kế sách nhằm cho quốc thái, dân an. Khi lâm bệnh nặng, được vua Trần Anh Tông về thăm và hỏi kế sách giữ nước, ông căn dặn: “Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước”.
Không những là vị tướng tài ba nơi trận mạc, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn còn là nhà lí luận quân sự tài giỏi, với những tác phẩm kinh điển như: “Hịch tướng sĩ”, Binh gia diệu lí yếu lược còn gọi là “Binh thư yếu lược”, “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”, đã đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự Việt Nam kể từ thời nhà Trần đến ngày nay.
Do lập nhiều công trạng lớn, lúc sinh thời, Trần Hưng Đạo được vua phong nhiều chức tước cao quý như: Quốc Công Tiết Chế Nhân Võ Hưng Đạo Đại Vương, hay là Đức Thượng Từ. Vua Trần Anh Tông phong là Đức Thượng Phụ Thượng Quốc Công Bình Bắc Đại nguyên soái Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương.
Đánh giá về người Anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Những chiến công đánh bại đế quốc Mông - Nguyên, những cống hiến trên lĩnh vực lí luận, tư tưởng và nghệ thuật quân sự của Trần Quốc Tuấn đã đưa ông lên hàng Anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự Việt Nam, xứng đáng là một danh nhân quân sự tầm cỡ thế giới. Với tài năng chính trị, quân sự kiệt xuất, với tấm lòng tận trung với vua, với nước, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã cùng triều đình nhà Trần và quân dân Đại Việt bảo vệ trọn vẹn độc lập dân tộc, đưa triều đại nhà Trần lên hàng triều đại thịnh trị trong lịch sử trung đại, để lại những bài học lịch sử có giá trị về dựng nước và giữ nước. Những thành tựu về võ công và văn trị, những giá trị vật chất và tinh thần thời Trần đã làm vẻ vang lịch sử dân tộc, là niềm tự hào lớn lao cho Tổ quốc ta”.
Người được lập đền thờ khi còn sống
Tháng Tám, ngày 20, năm Canh Tý, Hưng Long thứ 8 (5/9/1300), Trần Hưng Đạo qua đời ở trang viên riêng tại Vạn Kiếp. Tương truyền, do lo ngại mộ phần bị quân địch trả thù, đào xới, nên lúc sinh thời, ông căn dặn người thân mai táng mình ở vườn An Lạc, giả đám tang của người chị. Khi ông mất, đám tang của ông có hơn bảy mươi quan tài xuất phát cùng một giờ, đưa tang cùng một lúc, rải khắp vùng Vạn Kiếp. Với chi tiết lịch sử này, đến nay, các nhà nghiên cứu cũng chưa xác định được chính xác nơi đặt lăng mộ Trần Hưng Đạo.
Theo nhà sử học Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, chép trong “Đại Việt sử kí toàn thư”, tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1971, trang 89: Với những công trạng của mình, Trần Quốc Tuấn được triều đình nhà Trần cho lập đền thờ ngay khi còn sống, gọi là Sinh Từ và được đích thân Thượng hoàng Trần Thánh Tông soạn văn bia, ví ông với Thượng Phụ (tức Lã Vọng đã từng giúp Chu Vũ Vương), lưu danh ngàn đời một con người có tài cao, đức trọng, luôn vì nước, vì dân. Uy danh của ông còn khiến giặc phương Bắc phải kinh sợ, trong văn tịch, các triều đại phong kiến Trung Hoa cũng phải “khét tiếng ông, không dám gọi tên mà gọi là An Nam Hưng Đạo vương”.