Triết lí nhân sinh trong “Truyện Kiều”
Nghiên cứu - Trao đổi 08/09/2020 08:47
Mở đầu “Kim Vân Kiều truyện”, sau khi dẫn 8 câu thơ thất ngôn tả cảnh mùa Xuân, hội Đạp Thanh, nói về phận bạc duyên may, tác giả viết: “Xưa nay, đại phàm những bậc giai nhân tuyệt sắc, thường không được hưởng hạnh phúc giàu sang mà hay gặp những cảnh khắt khe, khổ sở. Xem như Chiêu Quân, Quý Phi, Phi Yến, Linh Đức, Tây Tử, Điêu Thuyền... toàn là những bậc hương trời sắc nước cả, nhưng số mệnh có ra gì đâu. Đó chẳng qua là con tạo ghét ghen, đã cho 10 phần nhan sắc thì bắt phải chịu 10 phần chiết mạ, đã cho một chút tài tình, lại tăng lên mấy tầng nghiệp chướng”.
Mở đầu “Truyện Kiều” là những câu thơ mà hầu như người Việt Nam nào cũng thuộc làu: Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau/ Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng/ Lạ gì bỉ sắc tư phong/ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen/ Cảo thơm lần giở trước đèn/ Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh…
Tranh minh họa. |
Cái “cõi người ta” ấy thực ra không phải chỉ là những thân phận phụ nữ và cũng không hẳn chỉ là “trăm năm”. Cái sự biến cải khôn lường “bãi biển thành nương dâu” ấy chính là triết lí nhân sinh, nỗi niềm thế sự đã thành điển hình có sức khái quát rất cao, đọc lên nghe có gì đó ngậm ngùi, buộc người ta phải suy ngẫm, chiêm nghiệm, phải tự soi xét bản thân và thời cuộc. Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng! Những điều trông thấy của Nguyễn Du, dẫu được viết như là đề từ của “Đoạn trường Tân Thanh” (Truyện Kiều) nhưng không chỉ gói gọn trong những kiếp người, những thân phận được lấy từ “Kim Vân Kiều truyện” mà là cả một “cõi người ta” Nguyễn Du từng chứng kiến, từ người gảy đàn ở Long Thành (Long Thành cầm giả ca), từ những kiếp cô hồn trong “Văn chiêu hồn” và những cảnh ngộ trong “Sở kiến hành” lần nhà thơ đi sứ Trung Quốc cũng như sự biến cải khôn lường của triều đình nhà Lê, gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền mà trong những năm tháng gió bụi, nhà thơ đã trải qua. Dẫu “đau đớn lòng”, nhà thơ vẫn kêu lên “tiếng kêu mới đứt ruột” (Đoạn trường Tân Thanh) để thức tỉnh cả thế giới.
Ở đoạn kết cũng vậy, triết lí nhân sinh, thuyết Tài - Mệnh và những đúc kết về cuộc đời thể hiện cách nói rất riêng của Đại thi hào Nguyễn Du: Ngẫm hay muôn sự tại trời/ Trời kia đã bắt làm người có thân/ Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao/ Có đâu thiên vị người nào/ Chữ Tài chữ Mệnh dồi dào cả hai...
Trong đời sống hằng ngày, Nhân dân ta thường hay đúc kết: Cũng là cái số cả, tất cả do trời định, trời thương thì mọi sự tốt đẹp, suôn sẻ, không thương thì rủi ro, bất hạnh cũng đành chịu. Hoặc giả: Có duyên, tốt phúc thì lấy được chồng giàu sang, phú quý, còn vô duyên, hồng nhan bạc phận thì như cánh hoa tàn. Trong “Truyện Kiều”, nhiều lần Nguyễn Du đã để cho nhân vật Thúy Kiều cảm thấu sâu sắc triết lí này và chấp nhận quy luật Tài - Mệnh: Hạt mưa sá nghĩ phận hèn/ Nguyện đem tấc cỏ quyết đền ba sinh…
Thời nay, đọc những câu: Ngẫm hay muôn sự tại trời/ Trời kia đã bắt làm người có thân/ Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao nghe có gì đó cam chịu, an phận thủ thường, không phù hợp, nhưng nhiều người vẫn thích ngâm ngợi, nhất là những người có tuổi. Nguyễn Du đã nâng quan niệm về chữ “thân” trong ca dao thành một triết lí: Muôn sự tại trời, trời kia bắt mỗi người có một thân phận và người càng có tài thì mệnh càng bạc. Tài - Mệnh luôn tương ứng với nhau: Có tài mà cậy chi tài/ Chữ Tài liền với chữ Tai một vần…!
Lời khuyên ấy đặt trong hoàn cảnh xã hội bình đẳng và tiến bộ, ngày nay, khi người phụ nữ đã được giải phóng, gông cùm của xã hội phong kiến đã hoàn toàn bị xóa bỏ thì không phù hợp, nhưng đặt vào hoàn cảnh xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII, đặc biệt là với những người con gái tài sắc, nhiều khát vọng tình yêu và khát vọng đổi đời mới thấy hợp lí. Đây cũng chính là sự mâu thuẫn trong nội tại tâm hồn, tư tưởng của Nguyễn Du: Vừa mong giải phóng cho người phụ nữ, đề cao tình yêu và tài sắc của họ, vừa muốn an ủi họ hãy chấp nhận sự nghiệt ngã của số phận (mà thực chất là chấp nhận sự ngang trái do các thế lực cường quyền tạo nên).
Điều khác biệt của Nguyễn Du với các nhà tư tưởng, các bậc thức giả đương thời là ông đã đề cao chữ Tâm, đánh giá nó gấp 3 lần chữ Tài. Điều này đã trở thành triết lí kinh điển của thi nhân hàng trăm năm qua luôn được người đời sau đề cập và ghi nhận. Cho đến hôm nay, nhiều người vẫn coi đó là lời răn dạy cho mình trong công việc cũng như trong cuộc sống: Thiện căn ở tại lòng ta/ Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
Sự phát triển cái Thiện - yếu tố đạo đức xã hội đã có nền móng từ lâu trong đời sống Nhân dân, là căn cốt, cội rễ của nhân cách con người trở thành chữ “Tâm” là một bước chuyển trong triết lí nhân sinh của Nguyễn Du, một con người từng trải qua nhiều cảnh ngộ, phải quần quật giữa mưa gió cuộc đời, thấm thía rất nhiều nỗi đau khổ của con người. Nguyễn Du đã gửi gắm suy nghĩ, đúc kết của mình về chữ “Tâm” (hay còn gọi là tình người, là tấm lòng yêu thương con người, là đạo đức xã hội) vào kiệt tác “Truyện Kiều”.
Nếu đem đối chiếu với cái kết thúc có hậu của “Truyện Kiều” thì rất hợp lí. Nhưng thực tế, những triết lí ấy còn có một tầm phổ quát hơn, vượt ra ngoài “Truyện Kiều”, trở thành một lời răn dạy như tục ngữ, thành ngữ của Nhân dân, trở thành nguyên tắc sống và làm việc, ứng xử trong phạm trù đạo đức của rất nhiều tầng lớp trong xã hội
Sức sống, sự lan tỏa, lay động, thức tỉnh của câu thơ: Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài thực sự đã vượt ra ngoài tầm thời đại Nguyễn Du, vượt ra ngoài không gian biên giới Việt Nam, trở thành giá trị xuyên thời đại.