Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng tiền that

Một vài ý kiến về tiểu thuyết “Còn có ai người khóc Tố Như”

Thế kỉ XVIII, Nguyễn Du là một nhà tư tưởng, một trí thức lớn, một nhà thơ vĩ đại, không chỉ là “một ngôi sao sáng” trên bầu trời văn học cổ Việt Nam mà năm 2015 còn được Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới (chỉ sau Nguyễn Trãi và Chủ tịch Hồ Chí Minh). Tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du với 3.254 câu thơ lục bát, kiệt tác đã trở thành một tài sản văn học chung của nhân loại, được dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau trên thế giới.

Nguyễn Du và “Truyện Kiều” vì thế đã được rất nhiều tổ chức, nhà khoa học xã hội trong nước, nước ngoài nghiên cứu, khảo cứu, viết chuyên luận, tham luận. Đã có nhiều cuộc hội thảo và rất nhiều công trình về nó. Còn tiểu thuyết viết về Nguyễn Du xưa nay là hiếm. Được biết, năm 2010 Nguyễn Thế Quang có tiểu thuyết về Nguyễn Du, và năm 2023 xuất hiện tiểu thuyết “Còn có ai người khóc Tố Như” của Võ Bà Cường.

Tôi chưa được đọc tiểu thuyết của Nguyễn Thế Quang nhưng đọc “Còn có ai người khóc Tố Như”. Sau khi đọc hết cuốn sách (296 trang, 255 trang tiểu thuyết) cùng các bài viết Lời thưa, Lời tựa, Lời bạt, bài giới thiệu, Lời tác giả, tôi cũng thấy “Ở chừng mực nào đó sự hình thành, ra đời của một tác phẩm văn học có nét tương đồng với sự hình thành, khai mở của một bông hoa…” , “Đặc biệt, tiểu thuyết đã tái hiện quãng thời gian 10 năm Nguyễn Du sống ở Thái Bình, quê vợ của đại thi hào…” (Nguyễn Bình Phương, trích Tạp chí VNQĐ). Nhà văn Võ Bá Cường hoàn thành tác phẩm sau một thời gian có những tìm hiểu, nghiên cứu chặng đường 10 năm Nguyễn Du về lánh nạn sau khi triều đại Lê - Trịnh sụp đổ, lấy vợ, sinh sống ở trấn Sơn Nam Hạ (Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình) để ra đời “Truyện Kiều”. Tuy nhiên, “Còn có ai người khóc Tố Như” hư cấu dễ dãi, đặt ra nhiều vấn đề cần bàn, cần làm rõ.

Nhà văn Võ Bá Cường gửi lời cảm ơn tại buổi giới thiệu sách
Nhà văn Võ Bá Cường gửi lời cảm ơn tại buổi giới thiệu sách

Về nghệ thuật viết tiểu thuyết: Cuốn sách hoàn toàn không phải thể loại tiểu thuyết (mặc dù được coi là tiểu thuyết dã sử). Thực chất là một cuốn sách không hẳn thuộc thể loại nào với nhiều chi tiết hư cấu, sử dụng lẫn lộn thể kí, tạp văn, tổng kết, bình luật, khẩu ngữ sáo rỗng... làm rối loạn nhận thức người đọc. Tuyến nhân vật được cấu trúc đơn tuyến, nhưng kiểu “đầu Ngô mình Sở”, tính cách nhân vật không nhất quán, chắp vá lung tung. Lúc thì hao hao như dã sử, lúc lại nhảy sang cách trình bày của công trình biên khảo, nhiều đoạn đặc sệt báo cáo tư liệu, bình luận, tổng kết về thân thế, sự nghiệp Nguyễn Du.

Về nội dung “Còn có ai người khóc Tố Như” làm sai lệch sự thật lịch sử: Việc tìm hiểu thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Du chủ quan, hời hợt dẫn đến việc miêu tả 10 năm “cát bụi” ở quê vợ chưa phản ánh đúng sự thật đã được khẳng định trong gia phả dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Cuốn gia phả này do NXB Văn học ấn hành (6/2016), GS.TS Mai Quốc Liên (Trung tâm Nghiên cứu Quốc học), chủ biên và nội dung tập thơ chữ Hán “Bắc hành tạp lục” của Nguyễn Du. Tác giả bất chấp sự thật của gia phả, sử dụng phương pháp “đẽo chân cho vừa giày”. Không có sự nghiên cứu về tư liệu, cũng như điền dã thực địa nên không tiếp cận được những điểm cốt lõi trong tư tưởng Nguyễn Du. Ông biến Nguyễn Du thành người phát ngôn cho những triết lí vụn vặt, nông cạn, qua đó hạ thấp tầm vóc của Nguyễn Du.

Tác giả không đi từ các nhân vật trong “Truyện Kiều” để hư cấu những số phận dưới chế độ phong kiến thối nát trong 10 năm gió bụi mà viết lan man, miêu tả hời hợt, dễ dãi. Trong 4 chương đầu, bằng lối tạp văn, tác giả miêu tả Nguyễn Du rời kinh thành để về Trấn Sơn Nam là một Nguyễn Du như đi dạo chơi, lãng đãng, đa tình, dễ xiêu lòng, không phép tắc. Một số cảnh huống lộn xộn, phong cách Nguyễn Du không phải là con nhà “trâm anh thế phiệt”, không khắc hoạ được nội tâm của đại thi nhân, điển hình là cuộc giao tiếp với chúa Trịnh…

Sai về lịch sử có thể dẫn ra rất nhiều chi tiết. Mặc dù tiểu thuyết được hư cấu nhưng viết về nhân vật lịch sử thì không được làm lệch chuẩn về sự kiện lịch sử. Điển hình như viết khiến bạn đọc hiểu Nguyễn Trãi là “hậu thế” của Nguyễn Du: “Lúc xong việc vỡ rồi, người ta dùng chân tay đập vỡ vứt vào bờ tre, giậu ruối làm chỗ ở cho con thằn lằn, thạch sùng trú thân. Biết bao cảnh dâu bể phải vượt, đến như Nguyễn Trãi hậu thế cũng phải thốt lên…” (tr.54-55). Còn ở trang 174 (chương X: “Đời người biết chữ nhiều lo lụy”) viết về giấc mơ của Nguyễn Du liên tưởng tới Nguyễn Trãi: “Trãi kéo đầu Du gối lên bắp vế của mình. Du không chịu, muốn đầu Trãi gối lên vế mình mới đúng” là sự ngạo mạn, trịch thượng của Nguyễn Du với Nguyên Trãi. Lại nữa: “Trãi nói. Mắt ngươi sáng hơn mắt Trãi vì sớm nhận ra bóng tối và ánh sáng. Mắt Trãi còn, lúc nhập nhằng, lúc thế này thế kia”. Nên nhớ, Nguyễn Trãi sinh năm 1380, Nguyễn Du sinh năm 1761, hai nhà tư tưởng lớn ra đời cách nhau khoảng 380 năm thì Nguyễn Trãi sao bị coi là “hậu thế”. Nguyễn Du sinh sau 12-15 đời sao có thể xấc xược, ngạo mạn, xúc phạm tổ tiên thế được.

Có những nội dung mâu thuẫn như năm 1796 Nguyễn Du vào Gia Định phò Nguyễn Ánh và bị Nguyễn Thận bắt tù 3 tháng. Sau khi được thả mới về quê vợ Thái Bình. Lịch sử là như vậy, nhưng tác giả viết năm đó Nguyễn Du chia tay Thăng Long và chuyến du thuyền về Thái Bình vào năm Bính Thìn là sai.

Cũng trong “Còn có ai người khóc Tố Như”, rất nhiều chi tiết sai lệch như Nguyễn Du phải tá túc ở Bích Câu Đạo Quản (trên thực tế khi ở kinh thành, Nguyễn Du sống trong dinh thự của cha, anh, là quan đại thần như Nguyễn Khản, Nguyễn Nghiễm). Chính Võ Bá Cường cũng viết “Nguyễn ngẫm thời thế những ngày mình sống với cha anh trong phủ đệ…” (tr.122). Lúc Nguyễn Du chạy loạn vào thời điểm triều đình Lê -Trịnh sụp đổ (sau khi Nguyễn Khản chết), Nguyễn Du chạy từ Thái Nguyên về quê chứ không phải từ kinh thành; quê mẹ Nguyễn Du là làng Hoa Thiều thuộc huyện Đông Ngàn, Kinh Bắc (nay là huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh), tác giả viết là làng Thiều Hoa. Các địa danh Bạch Lãng, Phong Nguyệt Sào nhắc đi nhắc lại với tần suất cao nhưng ít ăn nhập với nhân vật và nội dung tác phẩm. Còn miêu tả mối tình Nguyễn Du với Đoàn Thị Huệ “thơ mộng hoá” nhưng nặng chất cải lương…

Ở chương cuối cùng (chương XVI) “tiểu thuyết bỗng biến thành bản tổng kết của tác giả về cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du. Võ Bá Cường viết: “Nhân dân tự hào đẻ ra được một Nguyễn Du. Nguyễn Du tự hào đẻ ra được Truyện Kiều”, và “Ông là viên ngọc đẫm lệ của dân, viên ngọc hội tụ đủ đức tính con người: NHÂN ÁI - KHIÊM TỐN - DŨNG - KHÍ - CÔNG BẰNG. Đức tính con người Nguyễn có cả trong ngọc, nó là viên hồng ngọc, hoàng ngọc, bạch ngọc”… là điển hình của ngôn từ sáo rỗng…

Tiểu thuyết “Còn có ai người khóc Tố Như” nếu thâm nhập vào quần chúng sẽ có hại, bởi làm sai lệch nhận thức về một Nguyễn Du - Đại thi hào - Danh nhân văn hóa thế giới. Từ đó, cơ quan chức năng quản lí nhà nước về xuất bản, in, phát hành nên xem xét và xử lí theo quy định của Luật Xuất bản hiện hành.

Kim Quốc Hoa

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

Khát vọng hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Khát vọng hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc ngày 2/9/1945 là tiếng nói đại diện cho nhân loại sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945).
Khắc sâu lời Bác căn dặn 70 năm trước

Khắc sâu lời Bác căn dặn 70 năm trước

Cách đây 70 năm, trong cuộc gặp các cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 (Đại đoàn Quân Tiên Phong) tại Đền Giếng (thuộc Khu Di tích lịch sử Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ) vào ngày 19/9/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Nhà báo và những thách thức trong cơn lốc truyền thông mới

Nhà báo và những thách thức trong cơn lốc truyền thông mới

Thế kỉ XX chứng kiến bước phát triển sôi động của khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin, viễn thông,... đã làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.
Dòng chảy của sông cũng là dòng chảy của lịch sử nhân loại

Dòng chảy của sông cũng là dòng chảy của lịch sử nhân loại

Các nền văn minh của nhân loại đều bắt nguồn từ các dòng sông lớn. Dòng chảy của sông cũng là dòng chảy của lịch sử nhân loại…
Xây dựng cho thiếu nhi đời sống thái bình, tự do, sung sướng

Xây dựng cho thiếu nhi đời sống thái bình, tự do, sung sướng

Cuốn sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” (1948) của tác giả Trần Dân Tiên đã viết lại những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh chứng kiến về đời sống của thiếu nhi ở Liên Xô, khi Người đặt chân lên đất nước này.

Tin khác

Nhận diện để đấu tranh đẩy lùi, loại trừ thói xu nịnh

Nhận diện để đấu tranh đẩy lùi, loại trừ thói xu nịnh
Thói xu nịnh nguy hại khôn lường vì nó dẫn tới sự mất tỉnh táo, từ đó đưa ra những lựa chọn sai, quyết định không đúng. Kẻ xu nịnh và kẻ ưa nịnh đều tự hủy hoại nhân cách của mình, làm hại người tốt, thậm chí đây là một trong những căn nguyên gây ra tệ tham nhũng, tiêu cực… Nhận diện và quyết tâm đấu tranh, đẩy lùi thói xu nịnh là việc cấp bách hiện nay.

Cẩn trọng với mặt trái của việc trẻ sử dụng thiết bị điện tử

Cẩn trọng với mặt trái của việc trẻ sử dụng thiết bị điện tử
Trẻ lạm dụng thiết bị điện tử, như: Điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy tính, ti vi,… không chỉ gây hại đến sức khỏe, thị lực mà còn tác động xấu đến suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của trẻ. Việc sử dụng công nghệ không hẳn là xấu với trẻ nhỏ. Tuy nhiên, hãy xem xét tiêu cực của công nghệ đối với trẻ, từ đó kiểm soát mức độ tiếp cận của chúng...

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là ánh sáng soi đường cho phát triển giáo dục nước ta trong thời gian qua và cả trong giai đoạn sắp tới, là di sản vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, vấn đề cơ bản nhất là việc xây dựng và hoàn thiện con người thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục...

Đôi điều về chuyện làm quan ngày xưa...

Đôi điều về chuyện làm quan ngày xưa...
Ngày xưa, bố tôi được gia đình nuôi học chữ Nho từ nhỏ (Thầy dạy gia sư), hơn 10 năm mới đọc thông, viết thạo. Tốn kém bao nhiêu tiền bạc nuôi thầy và công sức bỏ ra. Bố còn được học ở trường Tây, có bằng Sơ học yếu lược.

Lòng dân quyết định thành công xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Lòng dân quyết định thành công xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc ta và thực tiễn cách mạng Việt Nam gần một thế kỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng đã minh chứng, Nhân dân có vị trí, vai trò và sức mạnh vô cùng to lớn.

Đồng chí Võ Trung Thành - người suốt đời vì nước, vì dân

Đồng chí Võ Trung Thành - người suốt đời vì nước, vì dân
Tại lễ kỉ niệm 100 năm ngày sinh và lấy ý kiến Nhân dân đề nghị Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân cho cố Bí thư Tỉnh ủy Võ Trung Thành (14/4/1924 - 14/4/2024).

Tuyên ngôn Độc lập đưa ra cơ sở vững chắc cho nền độc lập của nước ta

Tuyên ngôn Độc lập đưa ra cơ sở vững chắc cho nền độc lập của nước ta
Trong Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn vững chắc cho nền độc lập của nước ta.

Học tập đạo đức của Bác Hồ trong những ngày đầu xây dựng chính quyền

Học tập đạo đức của Bác Hồ trong những ngày đầu xây dựng chính quyền
Xây dựng chính quyền đi đôi với bảo vệ chính quyền là một trong những tư tưởng trọng yếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành được thắng lợi...

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Ngọn đuốc soi đường cho chúng ta đi!

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Ngọn đuốc soi đường cho chúng ta đi!
Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa đã 55 năm (1969-2024). Cũng ngần ấy năm bản Di chúc của Bác được công bố chính thức, trở thành di sản thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Tấm lòng của các doanh nhân trong “Tuần lễ vàng”

Tấm lòng của các doanh nhân trong “Tuần lễ vàng”
“Tuần lễ vàng” (từ ngày 17 đến 24/9/1945) để góp vào Qũy Độc lập đã phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhất là tầng lớp doanh nhân.

Thực hiện tiên phong, gương mẫu để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên

Thực hiện tiên phong, gương mẫu để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
Thực hiện Nghị quyết Trung ương (NQTƯ) 4, khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" có những nội dung mới. Đồng thời cũng nhận diện, chỉ rõ 27 biểu hiện của việc suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ để mỗi cán bộ, đảng viên tự soi mình sửa chữa và Nhân dân góp ý.

Giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam, mốc son chói lọi vẻ vang nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc...

Phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Tinh thần Cách mạng Tháng Tám đã khơi nguồn, bồi đắp sức mạnh cho toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta vững bước trên chặng đường mới, viết tiếp những trang sử hào hùng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cấp phó và giảm cấp phó trong hệ thống chính trị

Cấp phó và giảm cấp phó trong hệ thống chính trị
Cấp phó của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị là người giúp người đứng đầu thực hiện quản lí, điều hành một số công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ được phân công …

Bàn về lòng hiếu thảo

Bàn về lòng hiếu thảo
Trong lịch sử, lòng hiếu thảo luôn được coi trọng. Nói về lòng hiếu thảo, Hữu Tham tri Bộ Lễ Lý Văn Phức, một vị quan dưới thời vua Thiệu Trị nhà Nguyễn, đã làm thơ rằng: Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết/ Thì suy ra trăm nết đều nên...
Xem thêm
Phiên bản di động