Tiếng Việt: lịch sử, văn hóa và tính pháp lí; đôi điều bàn luận và kiến nghị
Văn hóa - Thể thao 09/04/2020 10:21
Dưới góc độ nhà báo, tôi không đi sâu bàn luận về nội dung hai “công trình” của các tác giả, thực tế cũng chưa đủ điều kiện để bàn luận. Bởi thế, tôi chỉ xin phép được trao đổi vài nét về tính lịch sử, văn hóa và pháp lí của tiếng Việt, trên cơ sở đó đưa ra đôi điều bình luận và kiến nghị.
Tiếng Việt, ở góc độ tiếng nói thì đã có từ lâu đời. Lúc đó con người dùng tiếng nói để giao dịch trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, thời bấy giờ chưa xuất hiện tiếng phổ thông, mà chủ yếu mang tính bộ lạc, vùng miền, cả về mặt từ vựng và ngữ điệu. Mãi sau này, khi đất nước trải qua ngàn năm phương Bắc đô hộ, đến khi giành được độc lập, các triều đại phong kiến xây dựng được quốc gia Đại Việt, thì tiếng nói của người Kinh trở thành phổ thông, được coi là tiếng Việt. Riêng chữ viết thì ra đời muộn hơn, khi nhà nước phong kiến hình thành và bộ máy cai trị dần hoàn thiện. Ở nước ta, trong hơn 1.000 năm Bắc thuộc, chữ viết được sử dụng là chữ Hán.
Sau khi giành được độc lập vào năm 930 của thời đại Ngô Quyền, các triều đại phong kiến tiếp theo, bên cạnh công cuộc giữ nước và giữ nước, các thế hệ cha ông còn cải tiến dần từ chữ Hán thành chữ Hán Nôm. Sự ra đời của chữ Hán Nôm, thể hiện phần nào bản sắc văn hóa của dân tộc Việt. Vào thế kỉ XVI, các nhà truyền giáo phương Tây, trong quá trình truyền đạo, đã đưa chữ viết mới vào Việt Nam. Đó là bộ chữ viết gồm 27 kí tự la tinh (chữ cái), cùng 6 thanh âm: ngang (không dấu), sắc, bằng (huyền), ngã, hỏi, nặng do các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và Italia mang đến. Bộ chữ ra đời, nhanh chóng đi vào cuộc sống của người dân bản địa. Năm tháng trôi đi, tiếng Việt tiếp tục được các thế hệ cha ông bổ sung, hoàn thiện, nâng tầm, trở thành đẹp mĩ miều như một dải lụa hồng; sâu lắng, thầm kín, tế nhị, sắc sảo như một nhà hiền triết; chân chất, giản dị, gần gũi như hạt lúa, củ khoai của người nông dân.
PGS.TS Bùi Hiền, người đưa ra bộ chữ Việt cải cách khiến dư luận bức xúc |
Sự sâu sắc, thâm thúy của tiếng Việt được thể hiện từ từng từ ngữ, dấu chấm, phẩy đến thanh trắc, bằng, hỏi, ngã. Cũng là d, nhưng d trên khác với g dưới. Dành (dành cho nhau thì d trên) giành (giành giật thì g dưới). Cũng là chữ y, nhưng y dài, i ngắn đã khác nhau một trời một vực. Thúy hoàn toàn khác với thúi. Dấu hỏi, ngã cũng vậy. Sửa chữa thì sửa ở đây là dấu hỏi; nhưng “sữa cô gái Hà Lan” thì phải là ngã, chứ không thể là hỏi. Bộ chữ của các nhà truyền giáo thế kỉ XVI, XVII phong phú đa nghĩa đến mức kì lạ và vì thế, nó nhanh chóng đi vào lòng người, dần trở thành Quốc ngữ của Việt Nam dưới các triều đại phong kiến thuộc Pháp; ngày càng trở nên đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Bộ chữ của của các nhà truyền giáo đã đi vào Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Hiến pháp năm 1946, tuy chưa xác định cụ thể ngôn ngữ Việt Nam là tiếng Việt, nhưng đã sử dụng Quốc ngữ (Tiếng Việt) để soạn thảo Hiến pháp. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013, tại Chương I, Mục 3, Điều 5 đã xác định rõ ràng: Ngôn ngữ Quốc gia là Tiếng Việt.
Anh Kiều Trường Lâm, người đưa ra “Bộ chữ Việt song song 4.0”, cũng bị dư luận lên án |
Wikipedia Tiếng Việt định nghĩa: “Tiếng Việt còn gọi là tiếng Việt Nam, tiếng Kinh hay Việt Ngữ, là ngôn ngữ của người Việt Nam. Tiếng Việt dùng bảng chữ cái la tinh, gọi là chữ Quốc ngữ cùng các dấu thanh sắc để viết. Tiếng Việt được ghi vào Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Năm năm 2013, là ngôn ngữ Quốc gia của Việt Nam. Tiếng Việt bao gồm cách phát âm tiếng Việt (tiếng nói) và chữ Quốc ngữ để viết”. Wikipedia Tiếng Việt còn phân tích, đánh giá: “Tiếng Việt là ngôn ngữ có nguồn gốc bản địa, xuất xứ từ nền văn minh lúa nước khu vực sông Hồng và sông Mã của Việt Nam. Chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, chỉ sử dụng 27 kí tự và 6 dấu thanh, đơn giản, tiện lợi và có tính khoa học cao, dễ học, dễ nhớ, thông dụng”.
Tiếng Việt đã được ghi vào Hiến pháp như là tên Nước, Quốc kì, Quốc ca, Thủ đô, chế độ chính trị… Do đó, Tiếng Việt trở thành tài sản Quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc. Chương XI: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp. Mục 1, Điều 120 quy định: “Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, có quyền đề nghị làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Quốc hội quyết định làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, khi có hai phần ba đại biểu Quốc hội bỏ phiếu tán thành”. Mục 2, Điều 120 quy định: “Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiếp pháp, thành phần, số lượng thành viên, nhiệm vụ và quyền hạn…”. Mục 3 điều này nêu rõ: “Ủy ban dự thảo Hiến pháp dự thảo, soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp”.
Ông Trần Tư Bình (quốc tịch Úc) |
Như vậy để nói: PGS.TS Bùi Hiền, cũng như anh Kiều Trường Lâm và ông Trần Tư Bình không có cơ sở nào để đưa ra cái gọi là “Bộ chữ Việt cải cách”, hoặc “Bộ chữ Việt song song 4.0”. Sự mạo nhận là “công trình nghiên cứu khoa học”, nhưng như các nhà ngôn ngữ học đánh giá là “phản khoa học”; với kì vọng đưa lại nhiều tiện ích cho xã hội, nhưng thực chất là xoá bỏ Tiếng Việt, “làm rối rắm xã hội”. Thực tế, ông Bùi Hiền cũng như anh Kiều Đình Lâm và ông Trần Tự Bình, là những “nhà khoa học”, nhưng hiểu biết pháp luật lại tỏ ra rất hạn chế, nên đã tự làm cái việc mà pháp luật không cho phép, hay nói cách khác là không thuộc thẩm quyền. Việc làm của các ông vô hình chung đã xâm hại đến tài sản Quốc gia, lợi ích và danh dự Quốc gia; làm méo mó, xấu xí và có nguy cơ hủy hoại tài sản Quốc gia. Điều đáng buồn hơn, việc làm đó lại được cơ quan quản lí Nhà nước là Cục Bản quyền Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch cổ xúy, cấp chứng nhận đăng kí bản quyền, làm cho họ ảo tưởng hơn về một tương lai không xa sẽ xóa bỏ được Tiếng Việt, đã là di sản văn hóa, tài sản thiêng liêng, vô giá của Quốc gia.
Đây là việc làm mà theo chúng tôi, cả các tác giả lẫn cơ quan quản lí, có một sự nhầm lẫn đáng tiếc, nếu không muốn nói là thâm ý nguy hiểm. Bởi vậy, chúng tôi kiến nghị: Cục Bản quyền, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch rút ngay giấy chứng nhận đăng kí bản quyền đã cấp cho anh Kiều Trường Lâm và ông Trần Tư Bình, về công trình “Chữ Việt song song 4.0”; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ hai “công trình” nghiên cứu khoa học của PGS.TS Bùi Hiền và anh Kiều Trường Lâm, ông Trần Tư Bình, vì đó là những công trình phản khoa học, có dấu hiệu vi phạm pháp luật, xúc phạm đến danh dự Quốc gia.