Tẻ hương “nụ đào”
Văn hóa - Thể thao 28/07/2023 09:19
Có lần tôi đến thăm một cụ sống độc thân, nhà rất nghèo. Cụ nói: “Tôi biết ngày gần đây tôi “đi”, họ hàng gần như không có ai. Tôi xin ông chủ tịch đến vuốt mắt tôi, để tôi được nhắm mắt ra đi thanh thản”. Hai ngày sau, nghe tin cụ qua đời, tôi đến vuốt mắt cho cụ. Rồi ngồi đợi cán bộ thôn lên xã xin áo quan và đồ khâm liệm. Lúc đem về, người cụ mất đã cứng. Nhiều người bàn, hay ta trải quần áo mới lên người cụ rồi khâm liệm. Tôi nhìn vào người mất, buột miệng nói đùa: “Thôi, đừng lên gân nữa, thả lỏng để tôi thay quần áo đẹp cho, chứ ăn mặc lôi thôi thế này mà lên gặp Tiên gặp Phật, họ đuổi về đấy!”. Thế mà người cụ mềm ra thật. Mọi người thay quần áo và khâm liệm cụ. Qua việc làm đó, tôi trở thành “nổi tiếng”, vì điều khiển được cả người chết!
Cũng từ việc trên, mà tôi được một số cụ trước lúc đi xa dốc bầu tâm sự “rất riêng tư”. Có cụ còn nhờ tôi chuyển lời “kín đáo của mình” đến người “thương” (kể cả con riêng), mà lúc còn khỏe, các cụ “không được phép” giãi bày.
Cụ Phan Thị Nhuận cũng vậy. Cụ kéo tay tôi lại gần rồi nói: “Em ngồi gần vào đây chị kể em nghe (Cụ gọi tôi là “em” một phần vì cụ nhiều tuổi hơn, phần vì cha chồng chị là thầy dạy tôi chữ nho). Tôi nghĩ đây là điều kín đáo, sâu nặng mà cụ không muốn mang đi.
…Lúc anh chị ở bên nhau, cứ vào mùa Xuân, chị lại ra vườn cắt một tẻ (nhánh con) đào trên có mấy nụ hoa đem vào giường trao cho anh. Hôm đó, đầu năm Bính Tuất (1946), tại sân đình, xã làm lễ tiễn đưa “Đoàn quân Nam tiến”, gồm 12 người xung phong ra trận. Thầy đồ cẩn thận dặn: Chị cứ đùm cho anh một ít gạo, một ít khoai gieo (khoai lang luộc chín rồi thái phơi khô), bỏ trong ống quần thắt lại, để anh vắt vai cho tiện. Anh giấu tẻ đào, chờ khi mọi người không để ý dúi vào tay chị rồi nói nhỏ: “Cất đi”. Chị không biết giấu bằng cách nào, đành xõa tóc che hoa. Trong không khí ngày lễ, anh lại bên chị nói nhỏ: “Chẳng may anh không trở về, thì em cứ lấy chồng để giữ gìn nòi giống cho đất nước”…
Đi khỏi làng một quãng, mọi người đưa tiễn quay về. Lúc này chị mới lấy tẻ đào ra để ngắm, tẻ đào chỉ có 3 nụ và một nụ nở thành 5 cánh như 5 cánh sao vàng trong ngày khởi nghĩa. Lúc này nước mắt mới thấm từng câu nói, từng nụ cười gượng...
Mấy năm sau nghe tin anh mất, cũng không biết anh nằm lại ở đâu! Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, xã có hơn 150 người đi bộ đội, thì có 22 liệt sĩ, trừ 2 người bị thương và mất tại trạm điều trị là có mộ, còn 20 liệt sĩ nữa không báo tin về mộ phần.
Mấy năm sau khi anh hi sinh, gia đình chồng cho phép chị đi bước nữa. Chị lại trồng cây đào tại nơi ở mới. Lúc đào có hoa, chị càng nhớ anh da diết. Khi xã có Đài Tưởng niệm các liệt sĩ, hằng năm, chị lại cắt tẻ đào kín đáo giấu trong áo bông, đến cắm lên bát hương trước bia đá khắc tên anh, 3 nụ đào như 3 đốm hương và chị lại tâm sự cùng anh…
Nhớ lời cụ Nhuận dặn, sau ngày mãn tang cụ, tôi mới đưa cho một số bè bạn của mình đọc bài thơ: Tẻ hương “nụ đào” Kính viếng hương hồn cụ Phan Thị Nhuận, vợ liệt sĩ Võ Đảm.
Trước lúc đi xa chị nắm tay tôi trối chuyện…/ Chuyện chị tiễn đưa chồng đi Nam tiến/ Tay nải đeo vai kỉ niệm ngọt ngào/ Giấu tẻ đào lắm nụ khát khao/ Chờ lúc vắng, anh dúi vào tay ấm/ Mà một nụ trở thành ngôi sao thắm/ Chị xõa tóc che, ngượng không dám ngắm/ Nói nói cười cười nước mắt thấm từng câu/ Tím sầu đông, ruộng sâu cấy còn dang dở/ Đỏ au lá bàng, mắt buồn quạnh hiu, lặng nhớ/ Mấy năm sau, nghe tin đau thắt/ Nơi anh nằm chắc “cỏ bén hơi”/ Cây đào nhà ruột héo vỏ tươi/ Đã thấy trầu cau người ngoài ngõ/ Nay giữa làng trang nghiêm Đài Tưởng niệm/ Bát hương thờ trước bia đá khắc tên anh/ Dẫu lúc này tóc chị chẳng còn xanh/ Vẫn cứ đầu xuân hẹn anh về Đài âu yếm/ Giấu trong áo bông tẻ đào xưa đưa tiễn/ Lúc khói hương thao sợi nối cõi linh thiêng/ Chị “thắp” dâng anh mấy đốm nụ đào riêng/ Để lại nở thành ngôi sao thắm/ Hẳn như ngày nào ủ hoa vào lòng anh say đắm.