Lặng lẽ Thất Sơn
Văn hóa - Thể thao 01/11/2022 10:23
Về mặt địa lí, đó là nơi có những cụm núi lẻ loi, rời rạc, đột khởi giữa đồng bằng. Tây Nam Bộ là vùng sông nước với đặc điểm là đất trũng thấp và nhiều kênh rạch, do vậy núi non mọc giữa đồng bằng trở thành hình ảnh “lạ lẫm” với những gì mà cư dân đã tiếp xúc và quen thuộc, khiến họ xem đây là chốn thiêng.
Về lịch sử, đó là nơi những di dân hạn chế tìm đến để khai phá vì địa hình hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, thú dữ hoành hành, lại thêm nạn cướp bóc và giặc ngoại xâm ven biên giới… Người tìm đến nơi đây là những ẩn sĩ lánh đời để tu hành, thành phần bất hảo tìm chốn nương thân, những chí sĩ tìm căn cứ khơi dậy phong trào cứu nước…
Khu du lịch núi Cấm. |
Về văn hóa, đó là nơi chứa đựng nhiều hiện tượng tâm linh huyền bí. Trong đó, nổi bật là những tôn giáo bản địa ra đời và truyền bá ở vùng đất này. Những câu chuyện về bùa phép từ bao đời đã khiến vùng núi đồi này trở nên “nổi tiếng”, thậm chí người xưa đúc kết thành câu tục ngữ “tu Phật Phú Yên, tu tiên Bảy Núi”.
2. Vùng đất kì lạ ấy khép mình lặng lẽ bên biên giới Tây Nam suốt bao đời qua. Giữa thế kỉ XIX, nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa có thời gian bị đày làm lính trấn giữ vùng Thất Sơn và để lại nhiều tác phẩm trong giai đoạn đó. Qua những câu thơ, người đời nay có thể phần nào hình dung về miền Bảy Núi thời ấy: Mịt mịt mây đen kéo tối sầm/ Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm/ Đống xương vô định sương phau trắng/ Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm/ Gió trốt dật dờ nơi chiến lũy/ Đèn trơi leo lét dặm u lâm/ Nghĩ thương con tạo sao dời đổi/ Dắng dỏi đêm trường tiếng dế ngâm.
Những lần đi qua hay ở lại Thất Sơn vào ban đêm, nhìn khung cảnh cả miền sơn cước chìm vào bóng tối, tôi lại nao nao nhớ đến bài thơ này. Thất Sơn về đêm buồn ảo não. Có dịp đứng trên núi Cấm hay núi Tô nhìn xuống dưới mới có thể cảm nhận được sự hoang liêu của miền biên viễn Tây Nam. Trong màn đêm đen kịt, một vài chùm sáng hắt lên từ các đô thị nửa phố nửa quê, xen kẽ những đốm sáng li ti le lói như điểm thêm những nét huyền ảo cho bức tranh hoài cổ.
Hồ Thuỷ Liêm - Hồ trên đỉnh núi là nơi thu hút đông du khách tham quan nhất. |
Có lẽ, nét buồn đó là cảm hứng cho nhiều văn thi sĩ, không chỉ riêng Bùi Hữu Nghĩa. Một thế kỉ sau ông, đến giữa thế kỉ XX, nhà văn Sơn Nam viết truyện ngắn “Dãy Cô Tô” đã miêu tả nét buồn đầy ma mị ấy. Gọi là ma mị vì đó là giai điệu tổng hòa giữa sự hoang dại của núi rừng, sự rình rập của thú dữ, sự đe dọa của lục lâm thảo khấu, sự bí ẩn của những nhà tu khắc khổ, thậm chí cả những oan hồn đã bỏ mình giữa sơn lam chướng khí…
3. Buồn nhưng đẹp! Trở lại với Bùi Hữu Nghĩa, chúng ta cảm nhận bức tranh Thất Sơn được vẽ lên bằng hai câu thơ đầy sống động: Giang biên phàm quá cô thôn vũ/ Lãnh ngoại xa hồi viễn thọ yên. Có nghĩa là, ven sông cánh buồm lướt qua mưa nơi xóm vắng, ngoài núi xe về trong đám khói trên cây xa. Song, hai câu ấy nếu dịch ra thành thơ lại rất khó thể hiện đầy đủ những hình ảnh sống động như trên. Có một bản dịch có thể tạm chấp nhận là: Mưa pháy bờ sông, buồm lướt tới/ Khói mờ cây núi, bóng xe về, mặc dầu vẫn chưa chuyển tải trọn vẹn ý thơ.
Hai câu thơ rất đẹp mà cũng rất thật. Ai đã từng trải nghiệm những cơn mưa ở miền biên giới Thất Sơn sẽ cảm nhận rõ. Dòng sông được nhắc đến ở đây có lẽ là kênh Vĩnh Tế. Vì dẫu có đứng trên các ngọn núi cao ở vùng này, tác giả cũng khó có thể nhìn thấy sông Hậu ngoài Châu Đốc. Ngày nay, ven kênh Vĩnh Tế vẫn còn thưa thớt nhà cửa - vẫn là “cô thôn”, huống hồ mấy trăm năm trước. Mưa vùng sơn cước khiến nhiều người không khỏi nao lòng. Thỉnh thoảng, một chiếc xuồng lướt qua màn mưa trên xóm vắng, hay một chiếc xe xuất hiện mờ mờ từ những hàng cây tầm tã bụi mưa. Đó là những hình ảnh thực tế rất sống động mà người đời nay vẫn còn bắt gặp.
Nhiều người đã quá quen thuộc với Thiên Cẩm sơn - “đỉnh thiêng” giữa trời Tây Nam, Phụng Hoàng sơn được mệnh danh là “núi ngọc” của đồng bằng, hồ Tà Pạ lung linh như tấm gương ngọc bích… Nhưng vẻ đẹp Thất Sơn đâu chỉ có thế, mà còn cả những nét u hoài trầm lắng suốt bao thế kỉ qua.
4. Và điều gì nữa, mang đến cái đẹp cho vùng Bảy Núi? Đứng giữa những ngọn núi bí hiểm mà quyến rũ ấy, tôi thường tự đặt câu hỏi: Những sơn dân ngày xưa đã từng làm gì ở nơi đây? Họ để lại những gì? Và tôi bắt đầu đi tìm những dấu tích của người xưa. Tôi đã thấy, một Thất Sơn lặng lẽ mà kiêu hùng, thâm trầm in dấu những bước chân kì vĩ. Nơi đây được xem là đất thiêng, một phần vì sự đặc biệt của địa lí, nhưng một phần vì sự hội tụ của những con người.
Năm 1851, ông Đoàn Minh Huyên, giáo chủ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương dẫn dắt tín đồ đến khai phá dưới chân núi Kéc. Năm 1866, ông Tà Pônh - một tu sĩ người Khmer chữa bệnh cho dân chúng và thu hút tín đồ. Năm 1878, ông Ngô Lợi - giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa dẫn dắt tín đồ đến khai phá dưới chân núi Tượng. Năm 1902, ông Nguyễn Văn Do lên núi Cấm, xây dựng Nam Các tự hay Nam Cực đường (chùa Phật Lớn ngày nay) cơ sở bí mật cho Hội Kín chống Pháp. Năm 1905, Hòa thượng Như Hiển - Chí Thiền từ miền Trung đến trụ trì chùa Phi Lai dưới chân núi Voi, thúc đẩy chấn hưng Phật giáo và vận động phong trào yêu nước…
Đó là một số gương mặt nổi bật đã cống hiến cho Thất Sơn, cùng với vô vàn những con người đã âm thầm cùng nhau khai khẩn và cày cấy, cùng nhau đi qua thời loạn lạc, cùng nhau xây dựng thanh bình. Thậm chí xa hơn nữa, dưới lòng đất biên cương này, biết bao dấu tích của vương quốc cổ Phù Nam mà con người ngày nay chưa khám phá hết. Người Phù Nam đã sống và chết với những núi đồi hoang dại và linh thiêng thuở ban sơ.
Tất cả những con người xưa và nay đã khiến cho Thất Sơn kì bí càng trở nên kì bí hơn. Họ đã cùng với Thất Sơn đi vào huyền sử.
5. Vậy đó. Có người ra đi, có người lại trở về. Có người tìm đến, có người lại rời xa. Dãy núi huyền bí ấy đã bao dung che chở cho những thế hệ đi qua giông tố. Thất Sơn vẫn đứng đó thâm trầm, khoan thai, lặng lẽ. Những tảng đá, những cội cây, những hang động… như đã từ ngàn năm có mặt, soi mình trước những thăng trầm, thịnh suy, thành bại của cõi người.
Để giờ đây, chúng tôi - những kẻ hậu sinh tìm về với Thất Sơn như tìm về với cố nhân, vừa quen vừa lạ…