Di tích lịch sử chùa Trung Tiết
Nhịp sống văn hóa 02/03/2020 09:00
Ngôi chùa còn giữ được nhiều kiến trúc cổ xưa, năm 2013 được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Theo sử sách Đại Việt, năm 1314, Trần Anh Tông nhường ngôi cho con để lên làm Thái thượng hoàng, Đặng Tảo và Lê Chung cùng được Anh Tông cho theo hầu. Năm 1320, Anh Tông lâm bệnh nặng, Đặng Tảo ngày đêm túc trực bên giường để sẵn sàng viết di chiếu, còn Lê Chung thì lo săn sóc mọi sự cho Thượng hoàng. Khi Trần Anh Tông mất, vua Trần Minh Tông tự mình lo việc khâm liệm. Giúp việc hệ trọng này, ngoài Quốc phụ Thượng tể Trần Quốc Chẩn, vua cũng chỉ cậy nhờ thêm Đặng Tảo và Lê Chung mà thôi. Vậy mà an táng xong xuôi, Đặng Tảo và Lê Chung không màng đến ân thưởng, cả hai cùng dọn nhà đến Yên Sinh (nay là An Sinh, Đông Triều) để trông nom lăng tẩm của Thượng hoàng Anh Tông cho đến khi hai ông mất. Sau ngày hai ông mất, Nhân dân trong làng lập một ngôi chùa để thờ Phật vua và hai vị trung thần Đặng Tảo và Lê Chung.
Chùa Trung Tiết |
Chùa Trung Tiết xây dựng vào cuối thời Trần (thế kỉ XIV). Trước đây chùa quay về hướng Đông, có hồ nước rộng 2.000 mẫu. Sau chùa cách chừng 2km theo đường chim bay là khu lăng mộ vua Trần Anh Tông, xa hơn một chút là núi Bảo Đài có chùa Ngọa Vân, gần hơn là chùa Quỳnh Lâm nơi thiền sư Pháp Loa, tổ thứ hai của thiền phái Trúc lâm từng trụ trì. Từ đây có thể nhìn về chùa Đồng trên núi Yên Tử và nhìn về chùa Thanh Mai ở Chí Linh, Hải Dương, nhất là những hôm trời trong. Như vậy, có thể thấy vào thời Trần đất này đã từng là trung tâm Phật giáo của nước Đại Việt.
Chùa Trung Tiết được tu sửa làm nhiều lần, đại tu vào thế kỉ XIX, nhưng vẫn giữ được dáng chùa cổ Bắc Bộ. Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, hiện nay vẫn giữ được nét cổ kính. Chùa có kiến trúc chữ Đinh, gồm 7 gian tiền đường và 3 gian thượng điện; sân chùa rộng 323,6 m2 được lát gạch vuông đỏ; giữa sân có lư hương và bức phù điêu bằng đá chạm khắc long quần vân tản. Hai bên là rồng chầu biểu trưng cho thái bình, thịnh trị, trên là bức cuốn thư đá, một bên là ngọn bút nghiên thể hiện tinh thần hiếu học, một bên là thanh gươm báu thể hiện ý chí quật cường của dân tộc quyết bảo vệ non sông đất nước.
Trong chùa còn lưu giữ được cổ vật có giá trị mang đậm phong cách thời Trần. Từ đường nét chạm khắc, màu sắc, hình khối, hoa văn, họa tiết đều hài hòa cho ta một cảm giác thần bí, siêu phàm. Ngoài ra, tại đây còn nhiều các hiện vật cổ khác như chân tảng bằng nhiều chất liệu và kích thước khác nhau cùng những viên gạch từ thời Trần và 10 pho tượng chất liệu bằng gỗ tương đối nguyên vẹn, có niên đại cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX như tượng Nam Tào, tượng Tổ Đạt Ma, tượng Tam Thế, tượng Di Đà, tượng Quan Âm Bồ Tát, tượng Đức Thánh Tăng, tượng Đức Ông... Và còn rất nhiều di vật quý hiếm minh chứng cho sự bề thế của một công trình kiến trúc lớn ở thời Trần.
Hằng năm, hội chùa Trung Tiết tổ chức trong 3 ngày, từ 14-16 tháng Hai (âm lịch). Ngày nay chùa Trung Tiết không chỉ là nơi lưu giữ giá trị văn hóa lịch sử, một dấu ấn về sự phát triển của Phật giáo thiền phái Trúc lâm mà còn là nơi giáo dục các thế hệ sau này về đạo lí tốt đẹp của dân tộc, về nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi con người trong việc thực hiện đạo lí “Tam cương, ngũ thường” được thể hiện rõ nét qua hai vị trung thần.