Dân sự hóa hành vi chiếm đoạt số tài sản lớn (Kì 2)
Pháp luật - Bạn đọc 21/09/2021 07:55
Đuổi người lao động và đối tác đầu tư, tự tung tự tác độc chiếm trang trại
Ngày 9/9/2019, Công an xuống kiểm tra hiện trạng trang trại, về 53.295m2 đất của ông Chính, theo hợp đồng giả. Ông Trần Văn Được khai: “Đất này thuộc quyền sử dụng của 4 người là ông Chính, bà Chi, ông Được và ông Thường (mỗi người đầu tư 1,3 tỉ đồng), có bản vẽ diện tích phân khu kèm theo”. Biên bản xác định tại hiện trường ngày 17/9/2019, giữa ông Chính, bà Chi và ông Được, cũng khẳng định: “53.295m2 đất thuộc quyền sử dụng của 4 người, không phải của riêng ông Chính”. Sự thật này buộc ông Chính phải thừa nhận tại biên bản ngày 21/9/2019: “Bản hợp đồng tôi giao cho công an, có xác nhận của UBND xã Quảng Châu ngày 7/7/2015, là hợp đồng giả do tôi và Chi kí”. Về bản hợp đồng giả, bà Chi cho biết: “Khi soạn thảo Hợp đồng số 050115/HĐHTKD, tôi và ông Chính nhất trí nội dung, tôi in 4 bản đưa ông Chính đọc, mấy ngày sau ông Chính đưa lại cho tôi kí, trong 4 bản hợp đồng có bản hợp đồng giả ông Chính kèm lẫn, tôi không đọc lại nên không phát hiện ra và kí vào 4 bản hợp đồng”.
Bản hợp đồng giả đã được làm rõ là âm mưu của ông Chính, để không góp 50% vốn đầu tư như hợp đồng thật đã kí, đồng thời chiếm đoạt 5,06 tỉ đồng của bà Chi, giao cho ông Chính thực hiện dự án. Nhằm che giấu sự thật về thu chi không minh bạch của mình, ông Chính gây khó khăn, tạo cớ sa thải 5 người giúp việc, mà bà Chi đưa họ về để giám sát thực thi dự án theo cam kết. Thậm chí bà Chi khi vào trang trại, ông Chính cũng ngăn cản. Hành vi của ông Chính bị các công dân gửi đơn tố cáo tới Công an TP Hưng Yên.
Lời khai gian dối dự án thua lỗ trên 6,7 tỉ đồng
Hạch toán sản xuất kinh doanh, dù là kinh tế gia đình hay hợp tác đầu tư, đều cần sự minh bạch trong thu chi, tất cả vật tư nguyên liệu đầu vào và sản phẩm tiêu thụ đều phải có chứng từ, hóa đơn thanh toán. Thế nhưng, ông Chính không thể xuất trình được với Cơ quan điều tra, để chứng minh tài chính. Ông Chính ghi nhận: “Số chi từ tháng 1/2015 đến ngày 29/3/2019, thu 14.291 tỉ đồng, chi 21,167 tỉ đồng, lỗ 6,476 tỉ đồng”. Thế nhưng, ngày 21/10/2020, ông Chính lại khai: “Sau khi cộng sổ xong thì tôi xác định được số tiền lỗ là 6,721 tỉ đồng”; “Số tiền này tôi phải đi vay bạn bè, vay ngân hàng, vay lãi suất cao ngoài xã hội và vốn cũ của tôi… Vay lãi suất cao, vay bạn bè thì tôi không có chứng cứ”.
Trong khi dự án hợp tác lỗ tới 6,7 tỉ đồng, nhưng ông Chính lại có tiền sửa nhà to đẹp và mua ô tô đắt tiền |
Thực chất 6,467 tỉ đồng lỗ, ông Chính tự kê khai, bao gồm cả chi phí đầu tư trang trại bất động sản, trong đó bà Chi góp tới 5,06 tỉ đồng. Số liệu trong sổ thu chi không minh bạch, lời khai của ông Chính thể hiện sự gian dối, bất nhất. Việc đuổi người do bà Chi đưa về làm việc trong trang trại, ông Chính đã đạt được mục đích bưng bít sự thật, để tự tung tự tác trong thu chi, ném tiền đầu tư của bà Chi “qua cửa sổ” và độc chiếm trang trại. Về việc này, theo bà Chi, khi kí kết hai bên phải tuân theo: “Nguyên tắc tài chính kế toán theo quy định của pháp luật…”, nhưng ông Chính gây khó khăn, không thực hiện theo các cam kết. Năm 2018, ông Chính tự ý lấy 125 triệu đồng trong vốn đầu tư của bà Chi, để đi mua đất và bán được 480 triệu đồng, ông Chính bỏ ngoài sổ sách số tiền này, để tiêu dùng riêng, cũng không nhập trả 125 triệu đồng vốn gốc. Trong khi ông Chính công bố trang trại lỗ 6,7 tỉ đồng, thì ông lại có tiền sửa nhà to đẹp, sắm ô tô 5 chỗ, giá nhiều tỉ đồng. Dấu hiệu sai phạm của ông Chính, theo bà Chi đã rõ ràng, nên bà có đơn tố giác gửi Công an TP Hưng Yên.
Dân sự hóa hành vi chiếm đoạt trên 5,06 tỉ đồng
Đại úy Trần Quang Bằng, điều tra viên Công an TP Hưng Yên và ông Nguyễn Anh Tuấn, kiểm sát viên Viện KSND TP Hưng Yên, đã làm việc và có lời khai của ông Trần Văn Chính, bà Nguyễn Kim Chi, ông Trần Văn Được và những người có liên quan, người làm chứng. Cơ quan điều tra đã thu được bản hợp đồng giả của ông Chính, thu được bản vẽ diện tích phân khu 53,295m2 không thuộc quyền sử dụng của riêng ông Chính, thu được sổ thu và chi không có chứng từ hóa đơn chứng minh. Đó là căn cứ chứng minh ông Chính có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cần phải khởi tố để điều tra.
Song, kết quả điều tra một đằng, kết quả điều tra lại đi một nẻo. Ngày 2/1/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Hưng Yên có Văn bản số 78; ngày 6/1/2020, Viện KSND TP Hưng Yên có Văn bản số 01/CV-KSV, đều kết luận, qua xác minh thì “Hành vi của Trần Văn Chính không cấu thành tội phạm, không phải do tội phạm gây ra (không có sự việc phạm tội)”. Ngày 2/1/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Hưng Yên ra Quyết định số 03, không khởi tố vụ án hình sự, đối với vụ việc theo đơn tố giác của bà Nguyễn Kim Chi. Một điều rất lạ, chứng cứ còn đó trong các biên bản làm việc, thể hiện rõ ông Chính lập Hợp đồng giả, để trốn việc không góp vốn đầu tư, nhằm lấy toàn bộ vốn đầu tư của bà Chi, để chiếm đoạt trang trại. Hành vi này được quy định tại điểm b, Khoản 2, Điều 340 Bộ luật Hình sự năm 2015, “Tội sử dụng giấy tờ, tài liệu đã bị sửa chữa hoặc làm sai lệch thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm, không khởi tố vụ án hình sự của Công an TP Hưng Yên |
Hành vi của ông Chính, trong vụ hợp tác với bà Chi, rồi chiếm đoạt tài sản 5,06 tỉ đồng của bà Chi, dấu hiệu “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, hoặc “Lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là rất rõ. Vậy mà, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an TP Hưng Yên lại dân sự hóa vụ việc, không làm rõ các hành vi ông Chính gây ra, dẫn đến hậu quả dự án hợp tác thua lỗ tới 6,7 tỉ đồng. Hiện bà Chi đã có đơn khởi kiện ông Chính tại TAND TP Hưng Yên, thẩm phán Nguyễn Thị Lý được giao thụ lí vụ kiện đã để quá thời hiệu, chưa đưa ra xét xử.
Luật sư Nguyễn Huy Hoàng, Trưởng văn phòng luật sư Vũ Linh, Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho rằng: “Trong vụ kiện này, ông Trần Văn Chính dùng hợp đồng giả mạo để thực hiện dự án, cơ quan điều tra đã chứng minh và ông Chính cũng thừa nhận. Hành vi này, theo quy định tại Khoản 2, Điều 103 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì Tòa án phải chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền, theo nguyên tắc giải quyết những hành vi sai phạm hình sự trước, sau đó giải quyết hậu quả dân sự trong bản án hình sự”.
Bà Nguyễn Kim Chi đề nghị TAND TP Hưng Yên, sớm đưa ra xét xử vụ án này, công minh, đúng người quy định của pháp luật.
TAND TP Hưng Yên có “luật riêng”?! Qua “biến hóa” của Hội đồng xét xử sơ thẩm, 2 khoản tiền trên 2.584 triệu đồng gốc ông Lê Văn Duy công nhận nợ ... |