Cơ sở cách mạng trung kiên Trần Đình Mười có phản bội Tổ quốc?
Nghiên cứu - Trao đổi 27/07/2020 10:51
Cơ sở cách mạng trung kiên Trần Đình Mười có phản bội Tổ quốc? |
Ngay sau khi Nha Trang giải phóng, ông đã chịu bao cảnh oan khiên. Có phải ông đã phản bội cách mạng? Với trách nhiệm của người đảng viên cầm bút, chúng tôi xin bắt đầu cùng đồng đội đi tìm sự thật, hi vọng sẽ trả lại được tên cho ông!.
Kì III: Ngày chiến thắng - niềm vui mới, chẳng tày gang
Trong bản xác nhận quá trình hoạt động của cơ sở Trần Đình Mười, ông Võ Đình Thu cho biết: Tháng 7/1973, ông và một số anh em khác được địch đưa về Biên Hòa để trao trả tù binh theo Hiệp định Pari. Nhưng chờ mãi không thấy địch trao trả, ông bàn với Võ Thứ tìm cách vượt ngục. Để có tiền vượt ngục, Võ Đình Thu gửi thư cho Trần Đình Mười. Thư gửi theo kiểu cầu âu, chẳng lấy gì làm chắc chắn. Vậy mà gần tuần sau ông (Thu) nhận được thư trả lời của Trần Đình Mười với mấy câu ngắn gọn: “Chúc các em sức khỏe và thành công”, kèm theo 5.000 đồng. Như vậy các tù chính trị Võ Đình Thu và Võ Thứ xác định: Cơ sở Trần Đình Mười vẫn còn nguyên vẹn, vẫn tiếp tục hoạt động.
Đúng như vậy, sau ngày giải phóng miền Nam, Tô Trịnh Ứng trở lại Nha Trang, đến nhà số 29, Phước Hải, căn hầm bí mật năm nào vẫn chưa bị lộ. Khui hầm lên, bên trong tìm thấy một khẩu súng ngắn K54 của mình để lại từ Mậu Thân vẫn còn. Ngày 19/9/1975 ông giao cho Ty An ninh tỉnh Khánh Hòa cùng với 18 viên đạn đã sét rỉ. Điều này chứng minh cơ sở Trần Đình Mười, sau Tết Mậu Thân 1968 đến ngày giải phóng miền Nam vẫn hoạt động bình thường chưa có dấu hiệu bị lộ.
Những tờ giấy xác nhận của đồng chí, đồng đội, cơ sở khẳng định: Trần Đình Mười không đầu hàng địch, không phản bội Tổ quốc! |
Sau năm 1968, phong trào cách mạng ở Nha Trang có lắng xuống, nhưng cơ sở Trần Đình Mười vẫn nuôi dưỡng, che giấu và đưa đón cán bộ, bộ đội ra chiến khu vào đô thị. Các ông, bà như: Thiệu Đắc Sanh, Trần Thị Bửu, Dương Thanh Tương, Nguyễn Xuân Mai, Bùi Văn Diêu… vẫn lấy nhà ông Mười làm nơi qua lại. Giấy xác nhận đề ngày 25/2/2011, ông Dương Thanh Tương, lúc này là Ủy viên Ban thường vụ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk cho biết: Mậu Thân 1968, tôi (Tương) hoạt động ở Kon Tum, bị địch bắt, giam ở Nhà lao Kon Tum rồi đưa xuống Nhà lao Nha Trang. Sau 2 năm bị giam cầm, được thả ra, các đồng chí lãnh đạo Đảng trong nhà lao giới thiệu tôi đến nhà anh Trần Đình Mười (lúc này anh Mười đã được thả sau Mậu Thân) tại 29 đường Phước Hải. Trong thời gian ở đây, tôi được anh Mười và gia đình tận tình nuôi dưỡng nên sức khỏe được hồi phục. Anh Mười còn liên lạc với gia đình anh Đạt Hiếu là cơ sở của tôi (Tương) tại Buôn Hồ, Đắk Lắk; anh Hiếu liên lạc với Huyện ủy H4 (Krông Buk) chấp nhận đưa tôi (Tương) về Đắk Lắk vào ngày 25/2/1970, tiếp tục chiến đấu, công tác cho đến ngày nghỉ hưu”.
Ngày 2/4/1975, Nha Trang - Khánh Hòa giải phóng. Cơ sở cách mạng Trần Đình Mười, công khai tham gia vào bộ máy chính quyền cách mạng lâm thời. Ông được phân công làm Phó Chủ tịch UBND phường Tân Phước (Phước Tân, Phước Tiến). Tuy nhiên, niềm vui chưa tày gang thì nỗi buồn, nỗi thất vọng đã ập tràn. Năm 1976 - 1977, miền Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp, do ông có cây xăng nên bị quy là tư sản. Nhà nước thu hồi cả xe và cùng bồn xăng 5m3.
Năm 1978, Công an tỉnh Phú Khánh gọi ông lên làm Bản kiểm điểm quá trình hoạt động cách mạng. Ông đã trình bày thật đầy đủ, chi tiết và khẳng định mình không đầu hàng địch, không khai báo làm lộ bí mất nơi cán bộ, bộ đội, cơ sơ của ta ra vào hoạt động, nên không gây tổn thất cho cách mạng. Bản kiểm điểm đã báo cáo đầy đủ tình hình, âm mưu, thủ đoạn của địch đối với cách mạng trong thời gian ông bị bắt giam cũng như khi được thả tự do và cả thời kì hậu chiến…
Đáng buồn hơn là sau đó, Thành ủy, UBND TX Nha Trang thông báo ông phải nghỉ việc vì có bí số do địch để lại. Chính quyền điều ông lên vùng kinh tế mới. Là cơ sở cách mạng, ông phải chấp hành. Nỗi buồn đang tê tái thì cuối năm 1979, vợ và con gái ông quyết định ra nước ngoài sinh sống. Trần Đình Mười bế tắc, không còn lối thoát, đành theo vợ và con gái sang Đài Loan, Canađa rồi đến Mỹ, để lại phía sau nỗi nhớ nhung cách mạng, đồng chí, đồng đội, đồng bào và những năm tháng hào hùng của cuộc kháng chiến.
Ngày 31/5/1979, trước khi ra đi, Trần Đình Mười đã gửi Thành ủy và UBND TP Nha Trang một bức thư tâm huyết. Bức thư có những đoạn rất xúc động: “Trong quá trình tham gia cách mạng, tôi may mắn được gần gũi anh em, nhất là các đồng chí lãnh đạo như anh Trọng, anh Nhiên, anh Qùy, anh Thắng… Rồi những đồng chí công tác, chiến đấu trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 với tôi. Những việc làm của tôi, các anh em đã rõ nên tôi không cần báo cáo nhiều. Lúc gặp các đồng chí ở núi rừng, khi trao đổi với anh em trong thành phố, dưới hầm bí mật, tôi được trang bị kiến thức cách mạng, tăng thêm lòng yêu nước, tình thương yêu đồng chí, đồng đội, đồng bào và lòng căm thù địch. Tất cả những thứ đó tiếp thêm cho tôi sức mạnh để vượt qua đến ngày toàn thắng… Tôi không ngại khó khăn, gian khổ, hi sinh; một lòng, một dạ theo Đảng, theo cách mạng, theo Bác Hồ; trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân; không đầu hàng, phản bội; không khai báo cán bộ, cơ sở cách mạng của ta với địch”.
Nhiều và rất nhiều cán bộ lãnh đạo, những cơ sở và cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang, biệt động thành hiện còn sống đang ở nhiều nơi trên mọi miền Tổ quốc hay đã qua đời ở Nha Trang, Khánh Hòa, như đồng chí Lưu Văn Trọng, Đặng Nhiên, Huỳnh Tưởng (Tám Hà), Dương Tấn Đạt, Huỳnh Chiêu, Bùi Chạn, Võ Đình Thu; Tô Trịnh Ứng, Võ Quyết Thắng, Huỳnh Văn Khoa, Lê Thị Ngọc Mai… Một số anh, chị khác đang ở Đắk Lắk, Kon Tum, Bình Định, Phú Yên như Dương Thanh Tương, Lê Xứng, Bùi Văn Diêu, Bùi Thị Tưởng, Nguyễn Thị Mùi, Nguyễn Thị Mai, Trần Thị Bửu, bị địch đưa về Nha Trang, sau khi ra tù, được cán bộ tù chính trị của Nha Trang, Khánh Hòa giới thiệu đã về cơ sở Trần Đình Mười để được ông và gia đình bao bọc, che giấu, nuôi dưỡng rồi lại trở về cơ quan, đơn vị, chiến khu tiếp tục hoạt động công tác, chiến đấu đến ngày quê hương giải phóng. Nhiều người đã để lại những lời xác nhận công lao đóng góp của ông Trần Đình Mười trong quá trình làm cơ sở cho cách mạng trong lòng thành phố giữa vòng vây quân thù suốt một cuộc chiến tranh. Theo họ, đó là sự hi sinh có thể xem là… vô giá!