Cơ sở cách mạng trung kiên Trần Đình Mười có phản bội Tổ quốc?
Nghiên cứu - Trao đổi 23/07/2020 08:10
Kì I: Trần Đình Mười - những năm tháng hào hùng
Ông Trần Đình Mười, sinh 1936, ở thôn Phước Lâm, xã Ninh Xuân, huyện Ninh Hòa (nay là thị xã) tỉnh Khánh Hòa. Cha mẹ ông sinh được bốn người con. Một anh trai là giáo viên bình dân học vụ bị Pháp bắn chết, được công nhận là liệt sĩ; một anh tập kết ra Bắc, bị bệnh qua đời ở Hà Nội và một chị gái vào sinh sống và làm ăn ở Nha Trang. Bản thân ông: Năm 1952, lúc mới 16 tuổi, đã tham gia cách mạng với nhiệm vụ được giao là làm liên lạc cho xã Ninh Xuân. Năm 1954, tập kết ra Bắc nhưng khi đến Quy Nhơn, Bình Định chuẩn bị xuống tàu thì được lệnh quay trở lại xây dựng cơ sở hoạt động lâu dài dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông Đặng Nhiên, lúc bấy giờ là Phó Bí thư Huyện ủy Ninh Hòa.
Lịch sử cách mạng xã Ninh Xuân, TX Ninh Hòa, giai đoạn 1930 - 1975, xuất bản tháng 12 năm 2013, trang 81 ghi: “Ông Lê Tư và Trần Đình Mười, thôn Phước Lâm, cùng các cơ sở khác trong xã tạo thành đường dây bất hợp pháp và hợp pháp từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong, thông suốt, an toàn”. Thời gian hoạt động cách mạng ở Ninh Hòa, ông Mười liên tục được phân công làm liên lạc cho các đồng chí Tư Ốm, Năm Nhỏ, Lưu Văn Trọng, Đặng Nhiên… là lãnh đạo của Huyện ủy. Năm 1956 - 1959, khi ông vào Nha Trang ở với chị ruột, vừa đi làm thuê vừa trốn lính, khi về Ninh Hòa làm ruộng, tham gia xây dựng cơ sở cách mạng. Năm 1960 ông chuyển hẳn vào Nha Trang theo chỉ đạo của tổ chức, xây dựng cơ sở nội thành, nắm tình hình địch, vận động phong trào học sinh, sinh viên.
Căn nhà 29 Phước Hải, vật chứng sống động của ông Trần Đình Mười. |
Thời gian đầu vào Nha Trang, Trần Đình Mười tá túc tại nhà chị ruột số 29 Phước Hải. Sau khi chị mất đột ngột, anh rể về lại Ninh Hòa, Trần Đình Mười tiếp quản căn nhà. Xét thấy vị trí căn nhà gần Sở Cảnh sát địch, nguy hiểm nhưng cũng dễ có cái lợi, nếu biết tận dụng. Vốn là con người nhạy cảm chính trị, Trần Đình Mười ra sức xây dựng mối quan hệ, biến nguy cơ thành thời cơ. Năm 1961 - 1962, cán bộ cách mạng từ chiến khu về hoạt động nội thành hoặc từ nội thành ra chiến khu bắt đầu qua lại căn nhà 29 Phước Hải; trong đó trường hợp đáng nhắc tới là đồng chí Huỳnh Tưởng, còn gọi là Thanh Hà, Bí thư Thị ủy Nha Trang. Sự xuất hiện của Thanh Hà đã đưa đến cho Trần Đình Mười một tình huống nguy hiểm. Hoài Phong, trong cuốn “Hồi ức một thời” đã mô tả tình huống này (lược thuật):
Sáng hôm đó anh Mười chở đá (đục ở vách núi sau nhà, nơi sau này là căn hầm bí mật) đi bán. Trên đường đi bị địch bắt đưa về một ngôi nhà bỏ trống ở cổng sân bay Nha Trang và cuộc tra tấn, hỏi cung bắt đầu.
- Mày giấu Bí thư Thị ủy Huỳnh Tưởng ở đâu?
Vừa cố gắng chịu đòn, Trần Đình Mười vừa suy nghĩ “như vậy là chúng chỉ đánh đòn gió. Nếu nói Tám Hà thì có thể cuộc gặp hôm đó của mình đã bị lộ; còn nói Huỳnh Tưởng thì chẳng qua chúng nói mò” vì thực tế anh (Mười) cũng chưa biết Huỳnh Tưởng là ai. Từ đó anh bình tĩnh trả lời:
- Tôi không biết Huỳnh Tưởng là ai!.
Suốt một tuần chúng đánh đập, tra tấn, cho đi hết tàu bay, tàu lặn chỉ duy nhất một câu hỏi: Huỳnh Tưởng bây giờ ở đâu? Từ nội dung tra tấn hỏi cung của kẻ địch, Trần Đình Mười phán đoán: Như vậy, Tám Hà chưa bị lộ.
Cuộc tra tấn bước sang giai đoạn thứ 2. Một buổi sáng sớm, khi trời còn tối om, không còn xác định được ngày tháng, địa điểm, chỉ biết bọn cảnh sát bịt mặt Trần Đinh Mười, tống lên một chiếc xe Jeep chở đi đâu đó, xa xôi, hẻo lánh lắm. Khi xe dừng lại, chúng mở bịt mắt thì ông thấy đó là một bãi cát, trước một cái hố sâu hoắm đã đào sẵn. Tại đây, chúng vừa dụ dỗ, vừa tra tấn, vừa dọa dẫm ông.
- Bây giờ mày muốn sống để về nuôi mẹ già hay muốn chết? Nếu muốn sống thì hãy khai hiện nay Huỳnh Tưởng ở đâu?”.
Trần Đình Mười khảng khái trả lời:
- Tôi đã nói với các ông rồi, tôi không biết Huỳnh Tưởng là ai thì làm sao tôi biết ông ấy ở đâu?
Bọn chúng lập tức ra đòn. Vừa đánh chúng vừa nói:
- Đây là cơ hội cuối cùng để mày có thể về với mẹ già. Mày đừng thách thức sự kiên nhẫn của tụi tao.
- Tôi cần sống để về nuôi mẹ già, nhưng tôi không biết Huỳnh Tưởng là ai cả, sao các ông cứ bắt tôi trả lời Huỳnh Tưởng ở đâu?.- ông tiếp tục trả lời.
Bọn địch đẩy ông xuống cái hố đã đào sẵn và những xẻng cát đầu tiên được đổ theo. Ngập hai chân, rồi lên tới bụng, tới ngực. Chúng vừa hỏi vừa đổ cát, còn ông thì cứ im lặng. Khi cát vừa đến ngang cổ là lúc có một người lên tiếng: “Dừng lại”. Người đó từ tốn:
- Anh Mười không sợ chết sao?
- Thưa ông, tôi rất muốn sống, nhưng không sợ chết. Đức Phật dạy rằng: Trong thế gian này… không có sự sống và cũng không có cái chết… vĩnh viễn. Chết hay sống… chỉ là quan niệm. Với tôi chết đi ở trần gian này… là sống lại ở một thế giới khác. Tôi thương mẹ vô cùng… nên cũng sẽ rất buồn vì ở kiếp này không nuôi dưỡng mẹ được trọn vẹn. Nhưng điều… làm tôi an lòng vì mẹ đã truyền cho tôi một quan niệm… về sự sống và cái chết... - Trần Đình Mười vẫn bình tĩnh trả lời trong trạng thái đã kiệt sức, giọng nói gằn lên từng tiếng, đứt quảng.
- Nếu bây giờ bị chôn sống, anh có căm thù tôi không?. - Tên địch lại tiếp tục.
- Chết… rồi còn biết gì mà… căm thù. Nhưng luật nhân quả có đấy ông ạ. Đức Phật dạy, nếu ở đời ai ác bá, cường hào sẽ chuốc lấy nghiệp chướng.
Trần Đình Mười, nghẹn giọng. Bỗng một người nào đó trong bọn họ, lại lên tiếng:
- Thôi đủ rồi, kéo nó lên!.
Chiều hôm đó Trần Đình Mười được xem là vô tội, tuy nhiên chúng vẫn chưa thả ông mà còn giam thêm 183 ngày nữa. Khi ra tù ông mới biết lí do địch bắt là vì một lần ông đến gặp ông Tám Hà tại một cơ sở khác ở thôn Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc (bây giờ). Sau đó một cơ sở khác ở đây bị bại lộ, từ đó làm cho bọn chúng tình nghi. Còn vì sao chúng phải trả tự do cho ông thì ngoài việc không buộc tội được, ở ngoài mẹ của ông đã bán hết mọi tư trang, những gì quý nhất để “chạy” cho ông thoát nạn.