Cơ sở cách mạng trung kiên Trần Đình Mười có phản bội Tổ quốc?
Nghiên cứu - Trao đổi 24/07/2020 10:29
Cơ sở cách mạng trung kiên Trần Đình Mười có phản bội Tổ quốc? |
Kì II: Trần đình Mười từ 1963 đến Tết Mậu Thân 1968
Từ năm 1963 đến cuối 1967, căn nhà 29 Phước Hải luôn là điểm đi về của các đồng chí lãnh đạo TX Nha Trang cũng như tỉnh Khánh Hòa. Nơi đây còn là điểm gặp nhau của các đường dây cơ sở nội, ngoại thành; chỗ tụ họp của các chiến sĩ trinh sát, bộ đội đặc công, biệt động. Ngoài đồng chí Tám Hà, tức Huỳnh Tưởng, Bí thư Thị ủy Nha Trang, còn có các đồng chí: Hoàng Sĩ Quỳ, cán bộ lãnh đạo Tỉnh ủy; Đặng Nhiên, Thường vụ Tỉnh ủy Khánh Hòa; Dương Tấn Đạt, Thị đội trưởng Nha Trang; Huỳnh Văn Chiêu, đại úy Bộ đội đặc công; Huỳnh Công Chánh, Chính trị viên Đại đội đặc công; Tô Trịnh Ứng, Thiếu úy, Ban Tác chiến Tỉnh đội; Nguyễn Văn Nho, cán bộ tỉnh đội… thường xuyên qua lại. Ông Lưu Văn Trọng, trong giấy xác nhận ngày 12/5/2011 cho biết: “Tháng 9/1965, khi tôi (Trọng) về làm Bí thư Thị ủy Nha Trang, đã liên lạc với anh Trần Đình Mười, lúc bấy giờ đồng chí Hoàng Sỹ Quỳ là cán bộ lãnh đạo nằm trong nội thành trực tiếp chỉ đạo toàn bộ cơ sở. Khi tôi (Trọng) là Phó Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa, ở chiến khu Đồng Bò mỗi khi ra vào nội thành, đều đến nhà anh Mười và được anh che chở, đùm bọc”.
Năm 1963, một sự kiện có ý nghĩa trong cuộc đời cơ sở cách mạng của Trần Đình Mười. Đó là việc ông lấy vợ. Vợ ông, bà Dư Trung, một cô gái người Hoa. Sau khi xây dựng gia đình, Trần Đình Mười mở cây xăng, mua thêm chiếc xe lampro để chở khách. Theo ông, muốn hoạt động cách mạng đạt kết quả phải có tiền. Tiền ngoài nuôi sống gia đình, tiếp tế cho cách mạng. Còn lo lót, hối lộ cho bọn cảnh sát, làm quen với chúng, nhờ cậy lúc gặp nguy nan.
Quả đúng như vậy, đã nhiều lần Trần Đình Mười dùng xe hon đa chở “đồng nghiệp” (cơ sở khác) hoặc cán bộ ta hoạt động hợp pháp, đi qua các bốt gác cảnh sát, chỉ cần giơ tay vẫy là chúng dễ dàng cho đi. Để tạo điều kiện cho cán bộ qua lại an toàn, Trần Đình Mười đã đục đá dưới nền nhà để mở rộng diện tích làm hầm chứa xăng, dầu; chỗ đậu xe và đặc biệt là đục phía sau vách núi làm một cái hầm bí mật để che giấu cán bộ, bộ đội. Năm 1964, ông sinh con đầu lòng. Đó là Trần Thị Tâm và đó cũng là đứa con duy nhất của ông.
Cuối năm 1967, chuẩn bị cho chiến dịch Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cơ sở tại 29 Phước Hải của Trần Đình Mười càng trở nên nhộn nhịp. Những ngày sát Tết, nhiều cán bộ lãnh đạo của Tỉnh ủy Khánh Hòa, TP Nha Trang; các tổ đội công tác, biệt động, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang, giao liên nội, ngoại thành ra vào càng đông, trong đó có các ông: Huỳnh Tưởng, Võ Quyết Thắng, Hoàng Sĩ Quỳ, Dương Tiến Đạt, Phạm Công Chánh, Nguyễn Văn Nho, Huỳnh Văn Chiêu, Tô Trịnh Ứng, Huỳnh Văn Khoa, Bùi Chạn, Võ Đình Thu, Lê Thị Ngọc Mai… Họ thường xuyên lui tới, coi căn nhà của ông là căn cứ lõm, điểm xuất phát chỉ huy tấn công quân địch ở Nha Trang.
Bước vào chiến dịch Mậu Thân 1968, cấp trên giao cho cơ sở Lê Thị Ngọc Mai chuẩn bị 500 bộ quần áo cho bộ đội cải trang. Tiền ở đâu ra và làm sao để có thể mua một lúc, ở nhiều chỗ? Bà Mai đã tìm đến cơ sở Trần Đình Mười và cùng bà Dư Trung, vợ ông Mười tính toán, chuẩn bị. Nhưng theo bà Mai, sau nhiều ngày mấy chị em đi mua gom, số lượng không đạt chỉ tiêu mà chỉ mua được 350 bộ...
Ông Võ Đình Thu và Huỳnh Văn Khoa kể lại: Chuẩn bị cho Tết Mậu Thân, hai ông (Thu và Khoa) cùng ông Võ Quyết Thắng, những người hoạt động công khai, đã vận động được 3 cơ sở sử dụng xe của gia đình để chở bộ đội. Theo kế hoạch, đêm 30 Tết, 3 ông: Trần Đình Mười, Trần Văn Cháu, trú chợ xóm Mới và Thái Thông trú ở Hà Ra sẽ đưa xe đến sông Kim Bồng, Ngọc Hiệp chở bộ đội vào đánh tỉnh đường (UBND tỉnh), khu Tiếp vận 5 (Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh) và Tiểu khu Khánh Hòa (Bưu điện tỉnh).
Gần Tết, tại nhà ông Mười có khoảng 20 người, gồm các đồng chí trong Bộ Chỉ huy nội thị Nha Trang như Bí thư thị xã Nha Trang Huỳnh Tưởng; Tỉnh ủy viên Đặng Nhiên; Thị đội trưởng Dương Tấn Đạt; Trưởng ban Tác chiến, Tô Trịnh Ứng… Ngày 30 tháng Chạp, Võ Đình Thu được phân công dùng xe hon đa đến nhà ông Mười chở đồng chí Đặng Nhiên lên nhà ông Thái Thông ở Hà Ra để kiểm tra công tác chuẩn bị và hợp đồng chở quân. Phương án được công bố: Trước giờ G, 3 xe tập kết tại bến Kim Bồng, xã Ngọc Hiệp. Bộ đội ta vừa tập kết thì cũng là lúc 3 xe chạy đến.
Đêm hôm đó các đơn vị đặc công lên ba xe rẽ ra ba hướng. Một vào tỉnh đường, một sang Tiếp vận 5, một tới Tiểu khu Khánh Hòa. Mũi đánh vào Tiếp vận 5, do Trần Đình Mười chở quân, ngay từ đầu đã đột kích vào làm chủ doanh trại địch. Do bộ đội ta sử dụng thủ pháo và AK đánh vỗ mặt làm quân địch số chết, số bỏ chạy tán loạn. Bộ đội ta không một ai thương vong và làm chủ ngày mùng Một Tết. Sang mùng 2 Tết, địch tập trung cả xe tăng, bộ binh và không quân phản kích. Bộ đội ta không có súng chống tăng, chiến đấu hết đạn, nhiều đồng chí hi sinh, bị bắt, số còn lại tìm đường rút quân. Ông Trần Đình Mười, chạy xe về nhà và mấy hôm sau thì bị địch bắt. Lúc này, Trưởng ban tác chiến Tô Trịnh Ứng còn bị kẹt trong hầm bí mật, nhưng sau đó được bà Dư Trung vợ ông Mười che chở, nuôi giấu trong hầm bí mật một thời gian và nhờ tấm thẻ căn cước giả do Cục Tình báo của ta cấp, đã công khai vượt ra ngoài trước tai mắt của địch.
Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, do lực lượng ta quá mỏng, nên không đạt được mục tiêu như mong muốn. Bộ đội hi sinh nhiều, một số đồng chí bị bắt, nhiều cơ sở bị lộ. Ông Võ Đình Thu, Huỳnh Văn Khoa (Hoài Phong)… cũng bị bắt. Trong những ngày bị giam cầm ở quân lao, ông Thu, ông Phong và cả đồng chí Lưu Văn Trọng (bị bắt từ trước Mậu Thân) lúc này cũng được đưa về đây, đã trao đổi tìm mọi biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất khi ra tòa, tránh rủi ro cho các cơ sở. Các ông thống nhất đưa ra một kịch bản: Ông Mười và ông Cháu thống nhất khai báo, các anh đưa gia đình đi chùa Long Sơn đêm 30 Tết thì bị “Việt cộng chặn đường, dí súng, đuổi người nhà xuống xe, bắt các anh phải chở quân đi đánh giặc”