Nước và nước sạch nông thôn
Nghiên cứu - Trao đổi 08/12/2021 09:13
Nước không vô tận
Hiện nay, nhìn chung dân đô thị được dùng nước sạch thuận tiện hơn, chỉ cần mở vòi nước là có. Có lẽ vì thế nên nhiều người không biết đến tầm quan trọng của nước sạch. Sống gần trọn đời, nhưng khi về quê tôi mới vỡ ra rằng, có được ngụm nước sạch không dễ và không rẻ.
Xung quanh ta, nước từ trên trời rơi xuống, từ lòng đất hút lên, từ các con suối dòng sông chảy về… cứ tưởng không bao giờ hết. Thời chưa xa lắm, giếng làng là “bể” nước không “đồng hồ”, miễn phí, cứ việc quẩy nước về dùng. Dòng nước mát của các con sông chẳng những cho con người mà còn tưới tắm cho những cánh đồng màu mỡ phù sa. Giếng khơi còn là nguồn cảm hứng dân dã “Năng mưa thì giếng năng đầy/ Anh năng qua lại mẹ thày năng yêu”. Nhưng bây giờ ô nhiễm tràn lan, trầm trọng. Nước mưa nay chẳng hứng để pha trà, càng không dám ngửa mặt ừng ực tu gáo nước mưa giải cơn khát trưa hè. Giếng khơi đã cạn còn nổi váng tanh nồng. Nước giếng khoan qua nhiều tầng lọc rồi cũng phải bỏ. Nước sông khúc đen ngòm, đoạn đục ngầu, chẳng ai liều “úp mặt xuống sông quê”. Đã đến lúc làng quê cũng cần có nước sạch như thị thành. Dù nguồn nước tự chảy từ trên cao, nước mặt dẫn từ hồ lớn, sông dài hay nước ngầm hút lên đều phải qua công nghệ xử lí nước hiện đại mới dám dùng để vợi đi nỗi lo bệnh tật. Từ đó tỉnh ra rằng nước không vô tận, nước sạch càng thế.
Nhiều nỗ lực
Đã có Chiến lược quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn. Chương trình mục tiêu quốc nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn được triển khai. Nguồn lực cho Chương trình được tăng cường bằng nội lực và hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và 3 nhà tài trợ DANIA, AuAID, Hà Lan theo phương thức hòa đồng ngân sách. Công nghệ cấp nước dựa trên nguyên tắc “Khai thác có hiệu qủa nguồn tài nguyên nước”.
Tính đến năm 2020 đã xây dựng hơn 16 nghìn công trình cấp nước tập trung với quy mô khác nhau góp phần cấp cho khoảng 28,5 triệu người, khoảng 44% dân số nông thôn sử dụng công trình cấp nước sạch theo quy mô gia đình. Tỉ lệ số xã đạt tiêu chí cấp nước sạch là 65,5%. Tỉ lệ dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 88,5%.
Điện về, nước về, làng quê bừng sáng. Từng nhà, cả xóm tôn tạo cảnh quan, nâng cấp hạ tầng, có nhà thành điểm Homestay. Ẩn mình trong lũy tre làng, biệt thự nhà vườn kiến trúc, nội thất, dịch vụ đẳng cấp, không thua khách sạn chốn thị thành, còn độ tươi mát, gần gũi thiên nhiên thì vượt trội.
Chăm lo nước sạch nông thôn không chỉ có do Trung ương, tỉnh, thành phố mà huyện, xã cũng lo. Cấp ban hành chủ trương, chính sách, cung cấp nguồn lực, cấp lo quản lí, vận hành. Có cơ quan chuyên môn kĩ thuật chỉ đạo, hướng dẫn, có đội ngũ thừa hành thạo việc.
Nhiều chuyện phải bàn, lắm việc phải làm
Số lượng công trình nước sạch nông thôn là không ít, song chỉ khoảng 70% điểm hoạt động từ bình thường trở lên, 30% còn lại kém hiệu quả hoặc máy nghỉ. Đó thường là các công trình nhỏ, công suất <50m3 >
Tỉ lệ thất thoát nước sạch dao động khoảng 25-35%, thường thì công trình lớn tỉ lệ thất thoát ít, còn ở công trình nhỏ thì ngược lại. Song dù ít hay nhiều đều là phí phạm tài nguyên, đáng lo ngại.
Do ô nhiễm môi trường ngày thêm trầm trọng khiến nguồn nước mặt an toàn ngày càng xa, đường ống dẫn nước dài thêm; tầng nước ngầm bảo đảm vệ sinh càng sâu, việc khoan hút cũng càng sâu, việc khai thác và sản xuất nước sạch ngày càng vất vả, tốn kém. Giá nước sạch vốn chưa tương xứng như các hàng hóa, dịch vụ, khi so kè với giá một lít nước đóng chai hoặc một li trà đá vỉa hè, nay càng bất cập khi mà phí, thuế, giá cả vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu… tăng. Giá thành nước sạch bị đội lên, nếu nâng giá bán dù phần tăng thêm chẳng bõ bèn gì nhưng sẽ như giọt nước tràn li, kích giá đồng loạt các hàng hóa, dịch vụ khác, xô đổ nỗ lực “be bờ” bình ổn giá.
Một số điểm trong cơ chế về nước sạch chưa bắt kịp thực tế, khó vận dụng hoặc vận dụng khác nhau, nhất là trong quy hoạch, huy động vốn đầu tư. Việc kiểm soát khai thác nguồn nước ngầm, quản lí vận hành, quản lí rủi ro như ô nhiễm, an toàn, an ninh, thất thoát cũng còn sơ hở. Ngày càng phải căng sức đối phó với biến đổi khí hậu, nước mặn xâm nhập, khô hạn. Chỉ một trận lũ quét là có thể xóa sổ công trình nước sạch kì công xây dựng. Rồi việc đổ trộm chất thải nơi đầu nguồn nước, đường dẫn nước lớn liên tiếp gặp sự cố…, cho thấy việc giữ an ninh, bảo toàn nguồn nước không hề đơn giản.
Mục tiêu trong định hướng
Để hiện thực hóa định hướng xây dựng và phát triển đất nước đến 2030, tầm nhìn 2045 phải có mục tiêu về nước sạch nông thôn. Theo đó, 65% dân số nông thôn được dùng nước sạch đạt chuẩn với khối lượng 60 lít/ngày. Đến 2045, 100% người dân nông thôn được dùng nước sạch, vệ sinh, an toàn bền vững. Như thế mới trọn vẹn là nông thôn mới.
Vì vậy cần, hoàn thiện chính sách. Huy động đầu tư từ ngân sách, vay nước ngoài và các thành phần kinh tế xây mới, nâng cấp, sửa chữa các công trình nước tập trung. Tranh thủ trợ giúp quốc tế, khuyến khích doanh nghiệp nước nội địa liên doanh với nước ngoài. Áp dụng cộng nghệ mới, trình độ quản lí tiên tiến trong khai thác, sản xuất nước, khử nước mặn, xử lí nước lợ thành nước ngọt. Giáo dục đi đôi với chế tài tiết kiệm nước, coi việc bảo vệ nguồn nước là thiết thực bảo vệ chính mình và cộng đồng.