Người cao tuổi buộc phải khởi kiện vì cho ở nhờ lại lấn chiếm thêm đất
Pháp luật - Bạn đọc 24/11/2023 08:43
Nội dung vụ án
Tại Tòa án, ông Ty trình bày: Phần đất tranh chấp 928m2 , thuộc một phần địa bộ 264, tờ số 1, Linh Xuân Thôn (tài liệu cũ), một phần thửa 305, tờ 2 bộ chính xã Linh Xuân, huyện Thủ Đức (tài liệu 299/TTg); thuộc một phần các thửa 106, 107, tờ 100 và một phần thửa 126, tờ 103 bộ địa chính phường Linh Trung, quận Thủ Đức (tài liệu 2004).
Ông Vui xây nhà số 42/4/2 đường số 8, khu phố 3, phường Linh Trung, TP Thủ Đức nằm trong phần đất khoảng 4.000m2/14.700m2 đất có nguồn gốc do cụ Huỳnh Văn Nhung, cụ Nguyễn Thị Đến (là cha mẹ của cụ Huỳnh Văn Tôn), cụ Tôn là chồng cụ Nguyễn Thị Nhỏ. Cụ Tôn, cụ Nhỏ là cha mẹ ông Huỳnh Văn Ty. Cụ Nhung và cụ Đến cho vợ chồng cụ Tôn phần đất khoảng 4.000m2 để sử dụng canh tác từ năm 1960 cho đến nay. Cụ Tôn, cụ Nhỏ cất một căn nhà trên phần đất cho, được chính quyền cũ cấp số nhà là “Liên gia 87, nhà số 5, khu phố 3, ấp Linh Trung, xã Linh Trung Thôn, quận Thủ Đức” (nay là TP Thủ Đức) và tờ khai gia đình có từ thời chế độ cũ.
Ông Huỳnh Văn Ty bên phần đất tranh chấp. |
Gia đình cụ Nhỏ có kê khai đăng kí qua từng thời kì: năm 1975, 1983, 1999; có thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Việc đăng kí cụ thể là: cụ Nhỏ đăng kí 1.400m2, bà Huỳnh Thị Rát (em ông Ty) đăng kí 600m2, ông Ty đăng kí 400m2, ông Huỳnh Văn Lượm (anh em họ) đăng kí 412m2. Những người: Đoàn Thị Đường, Lê Văn Da, Đặng Văn Hai, ở gần nhà cụ Nhỏ làm chứng lời khai nguồn gốc đất của gia đình cụ Nhỏ, như nói trên.
Ông Ty cho biết: “Năm 1996, ông Nguyễn Văn Vui được mẹ tôi (cụ Nhỏ) cho ở nhờ. Nhưng ông Vui lại nói được ông Huỳnh Văn Tiệp (cậu của ông Vui) cho ở nhờ trên đất, là không đúng sự thât. Sau đó ông Vui lấn chiếm thêm đất của gia đình chúng tôi. Năm 2002, mẹ tôi khiếu nại yêu cầu ông Nguyễn Văn Vui trả lại phần đất 810,5m2 (lấn chiếm). Năm 2005, hai bên hòa giải không thành. Ngày 28/2/2008, UBND quận Thủ Đức ra Quyết định số: 08/QĐ-UBND (Quyết định 08) giải quyết tranh chấp này. Sau khi nhận Quyết định 08, mẹ tôi khiếu nại khẩn cấp. Ngày 4/11/2013, UBND quận Thủ Đức ban hành Quyết định số: 6238/QĐ-UBND thu hồi Quyết định 08. Do quá bức xúc, mẹ tôi đau tim mất năm 2011. Chúng tôi liên tục kế thừa quyền và lợi ích của mẹ khiếu nại và khởi kiện theo hướng dẫn”.
Ông Huỳnh Văn Ty chuẩn bị hồ sơ để trình bày vụ án. |
Ngày 14/1/2016, ông Ty cùng các em là: Huỳnh Thị Rát, Huỳnh Văn Khôi, Huỳnh Văn Kỳ, Nguyễn Thị Minh Tuệ khởi kiện ông Vui ra TAND quận.
Năm 2020, ông Vui tiếp tục lấn chiếm thêm 112m2 đất, các nguyên đơn yêu cầu ông Vui trả lại 928m2 đất (đo thực tế lúc xét xử), tự nguyện cho ông Vui sử dụng 100,6m2 đất.
Bản án sơ thẩm hợp tình, hợp lí và đúng pháp luật
Ngày 27/6/2023, TAND TP Thủ Đức xét xử sơ thẩm. Tại phiên toà, bà Trần Thị Kiều Trang, Kiểm sát viên, đại diện Viện KSND TP Thủ Đức nêu quan điểm: Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn (là ông Ty) công nhận phần đất 827,4m2 thuộc quyền sử dụng của Nguyên đơn. Buộc ông Vui và những người đang cư trú trên đất di dời và giao trả phần đất nói trên. Ghi nhận phần nhà đất có diện tích 100,6m2 thuộc sở hữu, sử dụng của ông Vui.
Bản án sơ thẩm của Tòa án TP Thủ Đức. |
Bản án sơ thẩm số: 2114/2023/DS-ST ngày 27/6/2023 của TAND TP Thủ Đức, nhận định: Căn cứ vào các tài liệu liên quan, và hồ sơ lưu giải quyết tranh chấp, thể hiện như sau: Tài liệu 299/TTg: Nhà đất thuộc một phần thửa số 305, tờ bản đồ số 02, xã Linh Xuân,10.960m2, loại đất: T. cụ Nhỏ kê khai đăng kí 2.000m2, ông Vui không đăng kí. Năm 1999, cụ Nhỏ kê khai đăng kí 2.400m2, ông Vui không đăng kí.
Ngoài ra, căn cứ lời khai của các đương sự và tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập có cơ sở xác định: Nguồn gốc đất tranh chấp thuộc cha mẹ cụ Huỳnh Văn Tôn (chồng cụ Nhỏ, cha ông Ty) là cụ Nhung, cụ Đến canh tác, sử dụng 10.960m2. Cụ Nhung, cụ Đến chết không để lại di chúc, phần đất đó được các con của cụ Nhung, cụ Đến tiếp tục sử dụng. Và ông Vui cho rằng, đất tranh chấp có nguồn gốc của ông bà ngoại của ông (tức cụ Nhung, cụ Đến) không để lại di chúc, ông Vui được ông Huỳnh Văn Tiệp (cậu ông Vui) cho đất ở nhờ. Tuy nhiên, thực tế phần đất này có nguồn gốc do cụ Nhỏ kê khai, có số thửa trùng với vị trí đất tranh chấp, hoàn toàn không có thông tin ông Tiệp có liên quan đến phần đất này. Gia đình ông Tiệp biết có tranh chấp đất giữa gia đình cụ Nhỏ và ông Vui, nhưng không có ý kiến gì. Cho nên việc ông Vui cho rằng ông Tiệp cho ông đất để ở là không có căn cứ, chỉ có lời khai của ông Vui. Ông Vui cũng không cung cấp được giấy tờ gì chứng minh việc được cho ở nhờ là hợp lệ. Hơn nữa, trong Quyết định số 08 nói trên, dù bị UBND quận Thủ Đức thu hồi, nhưng nội dung quyết định chỉ thể hiện phần đất ông Tiệp cho ông Vui ở nhờ khoảng 100m2; trong khi hiện tại đất ông Vui đang sử dụng và quản lí 928m2, là thể hiện rõ ràng ông Vui đang sử dụng phần đất mà cụ Nhỏ đăng kí kê khai.
Do đó, TAND TP Thủ Đức tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công nhận phần đất tọa lạc số 42/4/2 đường 8, khu phố 3, phường Linh Trung, TP Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh thuộc quyền sử dụng của Nguyên đơn. Ghi nhận việc Nguyên đơn giao cho ông Vui quản lí, sử dụng phần đất 100,6m2 (đo thực tế), hỗ trợ cho ông Vui 100 triệu đồng di dời.
Không đồng ý với quyết định của TAND TP Thủ Đức, ông Vui đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm theo quy định.
Gia đình người cao tuổi (ông Ty và các em) cùng cho rằng, họ “làm ơn mắc oán”, và luôn tin tưởng Tòa án cấp phúc thẩm sẽ có quyết định khách quan, đúng pháp luật như quyết định tại bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, vì vụ việc chiếm đất đã kéo dài hơn 20 năm.