Nét đẹp dâng hương trong tín ngưỡng người Việt
Nhịp sống văn hóa 06/02/2020 14:29
Nghi thức dâng hương xuất hiện từ xưa, nay đã trở thành nghi lễ quan trọng trong nhiều lễ hội truyền thống cũng như trong việc thờ cúng tổ tiên của mỗi gia đình Việt. Nén hương như cầu nối thiêng liêng giữa cuộc sống của con người với cõi tâm linh, với tiên tổ.
Cùng với những phong tục truyền thống khác, nén hương như góp phần tạo nên và bảo tồn nét bản sắc của văn hóa dân tộc Việt Nam.
Theo quan niệm dân gian, người ta thường dùng số nén hương lẻ (1, 3, 5, 7, 9) để thắp hương. Nén hương thắp lên vừa đạt được ý nguyện tâm linh, dâng mùi thơm và mong chuyển lời cầu khẩn lên thần linh, tiên tổ, vừa là biểu hiện cái tâm của con người. Khi dâng hương cần thành tâm, ăn mặc nghiêm trang, thái độ cung kính. Rất tránh việc thắp cả bó hương rồi cắm lên ban thờ, vừa gây ô nhiễm, vừa như thất kính bởi sự cẩu thả. Nên cắm từng nén hương ngay thẳng bằng hai tay.
Trong tôn giáo cũng giống như trong tín ngưỡng dân gian, dâng hương là một nghi lễ quan trọng và nhiều tôn giáo có hình thức dâng hương trong các buổi lễ. Đặc biệt, trong đạo Phật, dâng hương là một nghi lễ không thể thiếu trong các sinh hoạt, lễ hội. Các nghi thức dâng hương và tụng niệm bao giờ cũng được thể hiện trước tiên vào giờ phút trang trọng và linh thiêng nhất.
Trong Phật giáo, hương là một trong sáu lễ vật dâng cúng gọi là lục cúng, gồm có hương - hoa - đăng - trà - quả - thực. Theo quan niệm của Phật giáo, lòng thành thể hiện qua làn khói hương và những phẩm vật có sẵn trong tự nhiên không cần yến tiệc, mâm cao cỗ đầy. Cúng Phật chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa quả tươi là đủ. Phật không phải ở trên ban thờ, trong những pho tượng, mà ở trong tâm của con người. Những người đạt được tâm hương là những người đạt đến mức độ của sự tu tập và giải thoát. Có 5 loại tâm hương là: Giới hương: Do giữ được giới (những điều quy định) mà thơm; Định hương: Do sự thiền định (tâm không tán loạn thoát khỏi sự ràng buộc của trần thế) mà thơm; Tuệ hương: Do từ trí tuệ (sáng suốt, thông hiểu sự và lí, dứt mê lầm) mà thơm; Giải thoát hương: Do từ mình biết thoát khỏi mọi khổ đau mà thơm; Tri kiến hương: Do tự biết mình đạt đến sự giác ngộ mà thơm.
Không chỉ Phật giáo, mà cả các tôn giáo khác như Ki-tô giáo cũng dùng hương trong các ngày lễ của mình. Thời xưa có những loại hương trầm còn giá trị hơn cả vàng bạc châu báu là vì người Ki-tô giáo tin rằng những loài cỏ cây thơm là do chư thiên ban tặng và đã thấm nhuần hương thơm của Đức Chúa Trời. Ấn giáo thì lại dùng hương để thư giãn và tập trung hơi thở lúc ngồi thiền. Còn trong đạo Nho thì khói hương tượng trưng cho bậc trượng phu, quân tử chỉ bay lên chứ không bao giờ lặn xuống.
Một số tôn giáo ở Việt Nam như Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo… trong các nghi lễ cũng rất đơn giản, lễ vật chỉ cần hương, hoa và nước sạch là đủ. Phẩm vật đơn sơ nhưng nghi thức trang nghiêm cũng đủ để chuyên chở những giá trị tinh thần cao đẹp và niềm tin vào đạo pháp.
Trải qua không gian và thời gian, nghi thức dâng hương lên thần linh, tổ tiên được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Nén hương đã trở thành một sản phẩm tinh thần trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Tuy nhiên, không nên thắp nhiều hương và thắp ở bất cứ nơi thờ tự nào, chỉ cần một hay ba nén tâm nhang là đủ, vừa bảo vệ môi trường mà giữ gìn được một phong tục thanh tao.