Huy động nguồn lực để thực hiện pháp luật và chính sách về người cao tuổi
Nghiên cứu - Trao đổi 06/10/2022 17:45
Năm 2011, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số và được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa thuộc hàng nhanh nhất thế giới. Già hóa nhanh đã tạo áp lực rất lớn đối với hệ thống an sinh xã hội cũng như công tác chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi (NCT).
Mở rộng hệ thống trợ cấp xã hội, chú trọng đến nhóm NCT thuộc các gia đình nghèo và cận nghèo
Theo nghiên cứu của Bệnh viện Lão khoa Trung ương, trung bình 1 NCT ở Việt Nam mắc từ 3-5 bệnh, chủ yếu là bệnh mãn tính phải điều trị kéo dài, thậm chí suốt đời. Trong khi đó, hệ thống chăm sóc sức khỏe NCT dù bước đầu được hình thành từ Trung ương đến địa phương nhưng vẫn chưa đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của NCT.
Hiện nay, hơn 70% NCT Việt Nam sống ở nông thôn, trong số đó chỉ dưới 20% NCT có lương hưu và trợ cấp xã hội. Do đó, đa phần NCT ở nông thôn phải sống bằng lao động của mình hoặc bằng nguồn hỗ trợ của con cháu. NCT ở Việt Nam thực tế chưa giàu đã già…
Mặt khác, xu hướng quy mô gia đình Việt Nam đang chuyển dần từ gia đình truyền thống sang gia đình hạt nhân. Tình trạng NCT sống không có vợ/chồng chiếm tỷ lệ cao. Với sức khỏe của NCT còn nhiều hạn chế thì việc phải sống một mình là một điều rất bất lợi, bởi gia đình luôn là chỗ dựa cơ bản cho mỗi thành viên khi về già.
Cần xây dựng các mô hình chăm sóc sức khỏe phù hợp với NCT |
Xuất phát từ thực tế trên, các chuyên gia nhận định, để thích ứng với già hóa dân số ở Việt Nam, cần xây dựng các mô hình chăm sóc sức khỏe phù hợp với NCT, đồng thời cần chuyển trọng tâm từ việc đơn thuần giúp tiếp cận với tuổi già sang giúp tiếp cận với một tuổi già vui vẻ, hạnh phúc, tiếp tục đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Từ nhiều năm nay, Đảng, Chính Phủ đã có nhiều chính sách về an sinh xã hội dành cho NCT như: chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ cấp xã hội,…
Thực hiện Chương trình quốc gia về dân số, kế hoạch hóa gia đình, duy trì mức sinh thấp hợp lý để có cơ cấu dân số hợp lý nhằm đảm bảo nguồn lao động phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước, hạn chế được tốc độ "già hóa dân số" quá nhanh; đồng thời đảm bảo quy mô dân số phù hợp với mục tiêu chính sách dân số của Đảng và Nhà nước.
Xây dựng, hoàn thiện các chính sách nhằm tận dụng tốt giai đoạn "cơ cấu dân số vàng", tạo cơ hội để nước ta chủ động bước vào giai đoạn "dân số già" có thu nhập cao và sức khỏe tốt trong tương lai.
Cải cách hệ thống hưu trí; đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm, chú trọng đến các loại hình bảo hiểm tự nguyện, đặc biệt là dành cho NCT, phù hợp với khả năng đóng góp và chi trả của người tham gia, có khả năng liên thông với các loại hình bảo hiểm khác.
Bộ Y tế tổ chức thực hiện Chương trình Chăm sóc sức khỏe cho NCT đến năm 2030 được phê duyệt tại quyết định số 1579/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; chủ trì phối hợp với các bộ, ngành liên quan, Hội người cao tuổi nghiên cứu cung cấp gói sức khỏe khám sức khỏe định kì, chuyên sâu để kịp thời phát hiện, điều trị một số bệnh phố biến ở NCT.
Tổng cụ Dân số tham mưu Bộ Y tế trình Thủ tướng Chính phủ ban hành bộ tiêu chí môi trường thân thiện với NCT nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu đã nêu trong Chiến lược dân số, Chương trình Chăm sóc sức khỏe NCT đến năm 2030; và đây cũng là một trong những chính sách thúc đẩy an sinh xã hội, góp phần chăm sóc và nâng cao sức khỏe NCT.
Những khó khăn, thách thức trong công tác chăm sóc sức khỏe và phát huy vai trò của NCT
Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam tăng 73,6 tuổi vào năm 2019 nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp so với nhiều nước, số năm phụ nữ cao tuổi sống có bệnh tật trung bình khoảng 11 năm và nam giới cao tuổi khoảng 8 năm. NCT đối diện với gánh nặng "bệnh tật kép" và thường mắc các bệnh mạn tính, bình quân mỗi NCT có 3 bệnh, đối diện với nguy cơ tàn phế do quá trình lão hóa, chi phí điều trị lớn.
NCT đối diện với gánh nặng "bệnh tật kép" và thường mắc các bệnh mạn tính, bình quân mỗi NCT có 3 bệnh, chi phí điều trị lớn. Ảnh: VTV |
NCT Việt Nam sống chủ yếu ở nông thôn, sống cùng con cháu; đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn.
Hệ thống chăm sóc sức khỏe nói chung, chăm sóc sức khỏe ban đầu nói riêng chưa thích ứng già hóa dân số nhanh; việc xây dựng môi trường thân thiện với NCT và triển khai các loại hình chăm sóc sức khỏe dài hạn tại cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức.
Thách thức trong công tác lập kế hoạch, hoạch định chính sách: Mỗi nhóm tuổi của dân số có những hành vi khác nhau, với những hệ quả kinh tế rõ ràng: Nhóm dân số trẻ đòi hỏi đầu tư chiều sâu cho y tế và giáo dục; nhóm dân số mới bước vào tuổi lao động cung ứng nguồn lao động và tăng tích luỹ và nhóm NCT đòi hỏi chăm sóc sức khỏe và thu nhập từ lương hưu. Khi quy mô của mỗi nhóm dân số thay đổi tương ứng với những biến động dân số, thì những đòi hỏi của những hành vi kinh tế của những nhóm này cũng thay đổi theo.
Chính vì vậy, khi hoạch định chính sách cần xem xét những tác động của thay đổi cơ cấu tuổi hay nói một cách khác, cần đưa các yếu tố dân số như là những biến số quan trọng trong việc xây dựng các quy hoạch, chiến lược, kế hoạch phát triển của mỗi ngành, địa phương, đơn vị.
Ở nước ta, chăm sóc đời sống NCT để đảm bảo về mặt vật chất và tinh thần luôn là những định hướng chính sách mà Đảng và Chính phủ thực hiện trong mọi giai đoạn phát triển đất nước. Tuy nhiên, do tốc độ "già hóa dân số" tăng nhanh, với số lượng và tỷ lệ NCT tăng cao làm tăng gánh nặng kinh tế, xã hội để duy trì ổn định cuộc sống khoẻ mạnh của nhóm NCT. Ngay cả khi tỷ lệ phụ thuộc trẻ em giảm cũng không thể bù đắp những chi phí xã hội tăng lên, do chi phí đối với NCT lớn hơn nhiều so với chi phí cho trẻ em.
Các nhà khoa học đã chứng minh, chi phí cho việc chăm sóc sức khỏe một người cao tuổi gấp 8 lần so với một trẻ em. Để thích ứng với "già hoá dân số", việc chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để đáp ứng nhu cầu của "dân số già" trong 1-2 thập niên tới sẽ là một thách thức rất lớn đối với các nhà lập kế hoạch và hoạch định chính sách ở nước ta.
Việc xã hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi trước thách thức già hóa dân số là hết sức cần thiết. Vì hiện nay, mặc dù được Đảng và Nhà nước rất quan tâm nhưng điều kiện về tinh thần và vật chất của NCT trên cả nước còn nhiều khó khăn cần sự chung tay, góp sức của toàn xã hội.
Số NCT được hưởng lương hưu, trợ cấp xã hội rất thấp nên nhiều người sức khỏe kém vẫn phải tự lao động kiếm sống hàng ngày |
NCT chủ yếu sống ở nông thôn, làm nông nghiệp, thu nhập thấp và bấp bênh. Đa số NCT không có lương hưu, sống phụ thuộc vào con cái. Số NCT được hưởng lương hưu, trợ cấp xã hội rất thấp nên nhiều người sức khỏe kém vẫn phải tự lao động kiếm sống hàng ngày.
Ngoài ra, hệ thống an sinh xã hội cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của NCT; hệ thống chăm sóc dài hạn và hệ thống cung ứng việc làm, chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được nhu cầu cho NCT; một bộ phận xã hội còn quan niệm sai lệch về NCT; vai trò của các tổ chức dân sự, đoàn thể, cá nhân chưa thực sự được phát huy... cũng là những khó khăn, thách thức đối với chất lượng sống của NCT.
Do vậy, bên cạnh sự chăm lo của Đảng, Nhà nước vấn đề xã hội hóa công tác chăm sóc NCT đang đặt ra hết sức cần thiết.
Hiện nay, đã có những mô hình chăm sóc NCT thông qua xã hội hóa nhưng chưa nhiều; vẫn còn những rào cản cho việc ra đời và hoạt động của các trung tâm chăm sóc NCT do cá nhân, tổ chức thành lập.
Nhằm góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm xã hội trong chăm sóc NCT, nhà nước cần tạo điều kiện, khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào các mô hình chăm sóc sức khỏe cho NCT.
Cần trao đổi kinh nghiệm từ những mô hình thực tế đã có hiệu quả; nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện xã hội hóa công tác chăm sóc NCT, làm cơ sở đề xuất, sửa đổi cơ chế chính sách cho phù hợp.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân, cơ quan, tổ chức và gia đình về trách nhiệm kính trọng, giúp đỡ, chăm sóc và phát huy vai trò NCT; sắp xếp lại hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội công lập theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa, tạo lập môi trường thân thiện, hòa nhập giữa các nhóm đối tượng với các hội. Đồng thời ưu tiên đầu tư nguồn lực nhà nước và huy động nguồn lực xã hội phát triển các cơ sở cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản.
Nhà nước cũng cần có cơ chế, chính sách thu hút đầu tư của doanh nghiệp, của xã hội trong đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng cho NCT; khuyến khích tạo việc làm phù hợp cho NCT, để NCT vừa có thu nhập cải thiện đời sống, vừa được chăm sóc y tế khi bệnh tật, ốm đau, bảo đảm chất lượng sống cho NCT.