Đề nghị được xem xét kháng nghị giám đốc thẩm vì nhiều dấu hiệu bỏ sót nội dung vụ án
Pháp luật - Bạn đọc 05/11/2024 17:06
Nội dung vụ án
Nguyên đơn - ông Nguyễn Văn Cảnh trình bày: “Do ông Son và vợ là bà Huỳnh Ngọc Thu không đủ tiền để đóng cho 15.848m² đất, tôi đóng số tiền 475.440 đồng theo danh sách bàn giao ngày 26/11/1991 và Phòng Nông lâm - Thủy lợi bàn giao đất này cho tôi.
Tôi lập thủ tục kê khai để cụ Kha đứng tên hồ sơ xin cấp đất, ngày 26/3/1992, UBND huyện Cần Giờ ra Quyết định số: 129/QĐ-UBH giao cụ Kha 15.848m² đất trên; và tôi tiếp tục lập thủ tục kê khai (tự kí tên thay cụ Kha) để cụ Kha để cấp đổi sổ lần 2 (GCNQSDĐ số: 439/QSD/SX ngày 16/10/2000). Tôi hứa cho cụ Kha 10.000m² nên để cụ Kha giữ giấy này.
Ngày 25/11/2011, tôi yêu cầu cụ Kha kí giấy xác nhận việc cho cụ Kha 1ha đất, còn lại 5.848m2 (đo thực tế: 5.239m²) là của tôi, cụ Kha chỉ đứng tên dùm tôi trên GCNQSDĐ, có chứng kiến của ông Trần Văn Trừ và ông Nguyễn Văn Tài là em rể cụ Kha. Cụ Kha kí tờ xác nhận tài sản này. Sau đó nhiều lần tôi yêu cầu tách diện tích 5.239m² qua cho tôi đứng tên thửa đất số I-53 nhưng cụ Kha nói sổ đang vay tiền thêm ở ngân hàng nên chưa lấy được giấy về. Nhưng, thửa đất trên cụ Kha đã làm thủ tục chuyển cho bà Phạm Thị Nhiều. Sau đó, vợ chồng ông Võ Văn Dũng, bà Nhiều tiếp tục thế chấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (GCNQSHNO&QSDĐO) có phần đất 5.239m² cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Chi nhánh Cần Giờ vay tiền năm 2017. Vì vậy, tôi khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết:
Đơn xin xác nhận ông Cảnh nhận đất 15.848m2 là vợ chồng ông Son, bà Thu có danh sách giao đất theo Quyết định số 377 của UBND huyện Duyên Hải (nay là huyện Cần Giờ) |
Hủy 1 phần Hợp đồng tặng cho số 001866/HĐ-TC, ngày 1/7/2016, giữa cụ Kha với bà Nhiều. Hủy 1 phần GCNQSHNO&QSDDO và tài sản khác gắn liền với đất số: CD519159 do Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cấp cho bà Nhiều ngày 5/8/2016. Trả lại phần diện tích 5.239m2 đất cho tôi.
Bị đơn - cụ Kha trình bày: Cụ Kha cho rằng có đồng ý cho ông Cảnh phần đất (khoảng hơn 5.239m2) ngoài 1ha mà cụ đứng tên. Do năm 1991, ông Cảnh là người đóng tiền nhận đất UBND huyện giao; và giúp cụ để được cấp giấy chứng nhận 15.848m2 đất trên. Chồng cụ có đồng ý việc cho ông Cảnh hưởng hơn 5 công đất, phần vợ chồng cụ là 1ha.
Cụ Kha đứng tên một mình thửa đất này qua hai lần cấp giấy đổi sổ, nên cụ ủy quyền cho ông Dũng tặng cho bà Nhiều. Bản thân cụ lớn tuổi, khi nhận đất thì ông Cảnh nhận đất cho cụ. Ông Cảnh là con cái trong nhà phụ trông coi đất và làm trên đất là chuyện bình thường. Đến thời gian sau này không nuôi tôm nữa thì để đất trống. Ông Cảnh giao đất đó cho gia đình cụ sử dụng từ năm 2008 đến nay.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 1461/2023/DS-ST ngày 22/8/2023 của TAND TP Hồ Chí Minh tuyên xử: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Cảnh.
1. Xác định phần đất 5.239m2 (5.082m2 đo thực tế thời điểm xét xử) nói trên thuộc quyền sử dụng của ông Cảnh.
2. Vô hiệu một phần hợp đồng tặng cho số 001866 /HDTC ngày 1/7/2016, đối với tài sản là quyền sử dụng 5.082m2 đất cụ Kha ủy quyền cho ông Dũng kí tặng cho bà Nhiều.
3. Hủy bỏ 1 phần GCNQSDĐ 5.082m2 có GCNQSDĐ số: CD 519159, vào sổ cấp GCN CS 00040 ngày 5/8/2016, do Sở TN&MT TP Hồ Chí Minh cấp cho bà Nhiều.
4. Buộc bà Nhiều tháo dỡ toàn bộ các trụ cọc và rào chắn đối với diện tích 5.082m2, giao đất này cho ông Cảnh.
5. Sở TN&MT TP. Hồ Chí Minh: thu hồi, điều chỉnh GCNQSDĐ cấp cho bà Nhiều (nói trên): Tách diện tích 5.082m2 ra khỏi giấy chứng nhận này, cấp mới GCNQSDĐ 5.082m2 này cho ông Cảnh.
6. Bà Nhiều được quyền sử dụng thửa đất 55 và thụ hưởng các quyền lợi có từ thửa đất này nếu có quy hoạch liên quan thửa đất đó.
8. Tiếp tục duy trì Biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 06/2017-QĐ-BPBĐ ngày 15/6/2017 cho đến khi cơ quan có thẩm quyền thu hồi GCNQSHNO&QSDDO và tài sản khác gắn liền với đất số CD 519159, vào sổ cấp GCN CS 00040 cấp ngày 5/8/2016 của bà Nhiều, và cấp GCNQSDĐ 5.080m2 trên cho ông Cảnh.
GCNQSDĐ của cụ Kha có hồ sơ do ông Cảnh 2 lần kí thay cụ Kha (giả chữ kí cụ Kha), nhưng tình tiết này chưa được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết. |
Bản án dân sự phúc thẩm số: 701/2024/DS-PT ngày 30/8/2024 của TAND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh xử: “1. Không chấp nhận khởi kiện của ông Cảnh đối với các yêu cầu sau:
1.1 Xác định phần đất 5.082m2 nói trên thuộc quyền sử dụng của ông Cảnh.
1.2 Vô hiệu một phần hợp đồng tặng cho số 001866/HĐTC, ngày 1/7/2016 đối với 5.082m2 đất cụ Kha ủy quyền cho ông Dũng kí tặng cho bà Nhiều.
1.3 Hủy một phần GCNQSDĐ số CD519159, vào sổ cấp GCN CS 00040, ngày 5/8/2016 cấp cho bà Nhiều 5.082m2 đất trên.
1.4 Buộc bà Nhiều tháo dỡ toàn bộ các trụ cọc và rào chắn 5.082m2 đất trên, giao trả cho ông Cảnh.
2. Hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 06/2017- QĐ-BPBĐ, ngày 15/6/2017 của TAND huyện Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh.
3. Giải tỏa biện pháp bảo đảm theo Quyết định số: 05/2017-QĐ-BPBĐ, ngày 15/6/2017 của TAND huyện Cần Giờ. Ông Cảnh được nhận lại số tiền 30.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh (nếu có) theo giấy nộp tiền tài khoản số 452101, ngày 15/6/2017 tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi nhánh huyện Cần Giờ”.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 1461/2023/DS-ST ngày 22/8/2023 của TAND TP Hồ Chí Minh |
Căn cứ đương sự đề nghị xem xét kháng nghị giám đốc thẩm
Ông Nguyễn Văn Cảnh cho biết: “Bản án dân sự phúc thẩm số: 701/2024/DS-PT ngày 30/8/2024 của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh thiếu khách quan, bởi các lẽ sau:
Thứ nhất, phần đất 5.239m2 (nay là thửa I-53, diện tích thực tế còn lại là 5.080m2) đứng tên cụ Kha là do tôi “giúp sức” tạo ra, cụ Kha chỉ đứng tên giùm. Cụ thể:
- Ông Hồ Văn Bửu, nguyên Chủ tịch UBND xã Tam Thôn Hiệp xác nhận tôi là cán bộ xã Tam Thôn Hiệp được giao nhiệm vụ thu tiền và nhận danh sách giao đất. Quyết định số: 377 của UBND huyện Duyên Hải (nay là huyện Cần Giờ), kèm theo danh sách giao đất thể hiện: Người được cấp đất 15.848m2 là vợ chồng ông Son, bà Thu, không có tên cụ Kha.
Bản án dân sự phúc thẩm số: 701/2024/DS-PT ngày 30/8/2024 của TAND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh |
- Vợ chồng ông Son, bà Thu, thừa nhận không có đủ tiền nhận diện tích đất được giao nên đồng ý cho tôi tự xin nộp tiền và nhận phần đất nêu trên. Sau đó, ông Son, bà Thu đột ngột thay đổi lời khai cho rằng không đồng ý cho tôi hoán đổi đất và đóng tiền để nhận đất, yêu cầu tôi trả lại phần đất cho vợ chồng ông Son và bà Thu. Điều này chứng minh rằng, cụ Kha không có tên trong danh sách được giao đất, và có việc tôi biết vợ chồng ông Son và bà Thu được giao đất, nên hai bên có thoả thuận hoán đổi đất. Căn cứ Giấy xác nhận đề ngày 15/1/1992 của ông Son và bà Thu, thể hiện tôi là người đóng số tiền 475.440 đồng để nhận đất 15.848m2 theo Quyết định số: 377 mà không phải là cụ Kha. Việc ông Son, bà Thu đòi đất từ tôi là gián tiếp thừa nhận tôi là người nộp tiền để được nhận đất và là người nhận bàn giao đất, quản lý sử dụng sau khi được bàn giao. Tình tiết này của vụ án chưa được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết.
- Cụ Kha khẳng định UBND huyện cấp đất cho cụ và thừa nhận tôi đóng tiền để nhận đất nhưng là đóng giùm cụ. Trong khi cụ Kha không biết rằng 15.848m2 đất thực tế không được giao cho cụ mà là giao cho ông Son, bà Thu. Do phát sinh việc tôi và ông Son, bà Thu thoả thuận hoán đổi nên mới có quyết định giao đất ngày 26/3/1992 cho cụ Kha. Tình tiết này của vụ án, chưa được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết.
Biên bản và danh sách bàn giao đất có tên ông Son (không có tên cụ Kha) |
- Năm 1998, tôi tự kê khai hồ sơ xin cấp giấy ra tên cụ Kha (kí thay tên cụ Kha trong hồ sơ xin cấp giấy đứng tên cụ Kha). Ngày 16/11/1998, UBND huyện cấp sổ đỏ đứng tên cụ Kha, thửa đất số 55 tờ bản đồ 7: 10.157m2 và thửa đất số 1-55: 5.082m2. Tổng diện tích lúc đầu là 15.848m2 đất, do có quy hoạch để phục vụ thủy lợi nên đo đạc còn lại là 15.239m2 đất. Và tôi tiếp tục kê khai để cụ Kha được cấp đổi sổ lần 2 (GCNQSDĐ số 439/QSD/SX ngày 16/10/2000), đối với 2 thửa đất trên, được sử dụng đến tháng 11/2018. Cụ Kha không biết thủ tục xin cấp sổ, không có đơn và không thực hiện việc xin cấp GCNQSDĐ lần 2, nhưng, cụ Kha nói nhờ người làm thay giấy này, mà không chứng minh được ai làm thay nếu không phải là tôi. Những tình tiết trên của vụ án (trong đó có việc tôi giả chữ kí của cụ Kha trong hồ sơ cấp 2 Giấy CNQSDĐ của cụ Kha) chưa được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết.
- Quá trình canh tác đất sau khi nhận bàn giao đất do tôi thực hiện, cụ Kha không có canh tác hay thuê người canh tác. Thực tế tôi là người phát quang cỏ dại, trồng dừa, đước; thuê ông Trần Văn Tài phát hoang, trồng cây tại phần đất trên từ năm 1991 đến năm 2008. Việc thuê mướn nhân công có kí hợp đồng theo từng năm, có những người làm chứng: ông Trần Văn Trừ, ông Nguyễn Văn Tài, bà Nguyễn Thị Luyến, ông Nguyễn Văn Thắng và ông Hồ Văn Bửu xác nhận tôi là người đứng ra canh tác, làm đất, phát hoang và tu bổ đất từ sau khi nhận giao đất. Ông Huỳnh Văn Hùng trực tiếp trồng dừa nước trong khu vực Nông trường Quận 3 xác nhận bàn giao số dừa đó cho tôi trồng trên đất mà tôi nhờ cụ Kha đứng tên giùm. Ông Nguyễn Văn Cây tố cáo tôi năm 1996 chiếm 10.000m2 đất trồng dừa lá của gia đình ông Cây, tại Thanh tra huyện Cần Giờ giải quyết tranh chấp việc khai hoang trồng dừa lá tại phần đất 15.848m2, ông Cây nhận tiền hỗ trợ khai hoang và tiền trồng dừa nước là 2 triệu đồng do tôi chi trả. Rõ ràng, việc ông Cây tranh chấp với tôi ai là người khai hoang trồng dừa chứng minh cho việc tôi là người canh tác và quản lí phần đất 15.848m2 sau khi được giao đất. Tình tiết này của vụ án chưa được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết.
Đơn ông Son kiến nghị thu hồi sổ đỏ cụ Kha |
Thứ hai, về phần đất 15.239m2 .Tờ xác nhận tài sản ngày 25/11/2011 có nội dung cụ Kha đồng ý phần đất được giao là do tôi nhờ cụ Kha đứng tên giùm; đồng thời tôi cho cụ 1ha, còn lại 5.848m2 là của tôi. Cụ Kha thừa nhận trong Tờ xác nhận là 5.848m2 (nay là thửa I-53, thực tế còn 5.080m2) phù hợp với lời trình bày của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - bà Nhiều biết rằng đây là phần đất của tôi do tôi nhờ cụ Kha đứng tên giùm. Cụ Kha cho rằng không đọc và không biết nội dung cam kết gì trong tờ xác nhận là không đúng thực tế sự việc. Tình tiết này của vụ án chưa được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết.
Bà Nhiều thừa nhận lời cụ Kha nói với tôi trong những văn bản ghi âm là của bà Nhiều và thừa nhận đất do cụ Kha đứng GCNQSDĐ số Q139942, vào sổ số 439/QSDĐ/SX do UBND huyện Cần Giờ cấp cho cụ Kha ngày 16/10/2000, có 5 công đất của tôi là phù hợp với phần đất đang tranh chấp. Tình tiết này của vụ án chưa được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết.
Thứ ba,Toà án cấp phúc thẩm nhận định tôi không phải là đối tượng được giao đất theo quy định quá hạn điền nên không có căn cứ chấp nhận phần đất tranh chấp là của tôi, mà không xem xét lời khai của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thừa nhận phần đất tranh chấp là của tôi là chưa đánh giá toàn diện.
Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét Quyết định số: 68/QĐUB ngày 25/6/1991 của UBND huyện Cần Giờ giao đất cho cụ Kha 15ha, ngày 27/6/1994, UBND xã cùng Trạm Kiểm lâm xã lập biên bản xác nhận tổng diện tích đất trồng 14,2ha đất.
Toà án cấp sơ thẩm căn cứ nguồn gốc đất, thủ tục pháp lí đất và quá trình sử dụng đất để xác nhận tôi có QSDĐ phần đất tranh chấp là đúng thực tế. Cụ Kha chỉ là người đứng tên giùm, toàn bộ quá trình từ hoàn cảnh giao đất, thực hiện thủ tục xin cấp GCNQSDĐ, cấp đổi cho đến việc canh tác sử dụng đúng mục đích đất được giao đều do tôi thực hiện. Cụ Kha không biết, không tham gia thực hiện và không chứng minh được việc cụ biết và tham gia vào quá trình trước khi được giao đất và sau khi được giao đất.
Toà án cấp phúc thẩm chỉ nhận định cụ Kha là đối tượng đủ điều kiện để được giao diện tích đất trên để sản xuất theo chủ trương của địa phương, mà chưa xem sự thật: Cụ Kha không phải là đối tượng được giao phần đất của vợ chồng ông Son, bà Thu (nói trên). Và tôi là người đứng ra xin uỷ ban huyện giao đất cho cụ Kha đứng tên, không có việc uỷ ban thấy gia đình cụ Kha có hoàn cảnh khó khăn nên được giao đất như cụ Kha trình bày. Và trên cơ sở tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án; lời trình bày của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thừa nhận bị đơn - cụ Kha chỉ là người đứng tên giùm cho tôi phần đất 5.239m2 (nay là thửa I-53, còn lại là 5.080m2). Tình tiết này của vụ án, chưa được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết.
Thứ tư, hồ sơ vụ án thể hiện: Nguyên đơn - ông Cảnh 2 lần kí thay cụ Kha (giả chữ kí cụ Kha) trong hồ sơ cấp 2 GCNQSDĐ cho cụ Kha. Sự việc này, thể hiện hồ sơ cấp 2 giấy chứng nhận này của cụ Kha có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Nhưng tình tiết này của vụ án, chưa được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết”.
Với những căn cứ trên, ông Nguyễn Văn Cảnh đề nghị: Chánh án TAND Tối cao căn cứ quy định tại Điều 326 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số: 701/2024/DS-PT ngày 30/8/2024 của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh theo hướng huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số: 701/2024/DS-PT ngày 30/8/2024 của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 1461/2023/DS-ST ngày 22/8/2023 của TAND TP Hồ Chí Minh.