Nội dung báo cáo, kiến nghị tới lãnh đạo Tỉnh ủy của đảng viên cao tuổi
Pháp luật - Bạn đọc 25/10/2024 19:26
Tôi là đảng viên (gần 30 năm tuổi Đảng), xin đăng kí gặp đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, căn cứ Khoản 3, Điều 3, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội XI của Đảng thông qua ngày 19/1/2011: Đảng viên có quyền báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời; và, tôi căn cứ Điều 3: Về quyền của đảng viên, quy định về thi hành Điều lệ Đảng số: 24 - QĐ/TW ngày 30/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương.
Hàng rào mặt ngoài bằng tôn, mặt trong làm thép, xây đúc cột bê tông (hình bên phải) khu đất tranh chấp được ông Hồng xây dựng; đất này vợ chồng ông Thông yêu cầu ông Hồng giao (Biên bản hòa giải không thành ngày 6/9/2007 lập tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hải). |
Những nội dung mà tôi mong muốn được báo cáo, kiến nghị với đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, cụ thể như sau:
Một, Bản án dân sự phúc thẩm số: 13/2017/DS - PT của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Quyết định: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông Nguyễn Hữu Hồng, bà Nguyễn Thị Lực và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là ông Nguyễn Văn Thông, bà Đinh Thị Xuân có hiệu lực pháp luật. Quyết định Giám đốc thẩm số 178/2018/DS - GĐT, ngày 16/5/2018 của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh: Giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 13 này.
Cả hai bản án và Quyết định trên, cùng có nội dung nhận định: “Về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp là do vợ chồng ông Hồng, bà Lực nhận chuyển nhượng của ông Vinh, năm 1992 thì chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông Thông, bà Xuân, đất chưa có giấy tờ, chưa đo đạc thực tế. Ban đầu vợ chồng ông Thông, bà Xuân nhận chuyển nhượng thửa đất khoảng 2.800m2 với giá 16 chỉ vàng. Ngày 6/5/1992, hai bên có làm giấy biên nhận, ông Hồng đã nhận đủ 8 chỉ vàng, còn 8 chỉ vàng trả trong hai tháng. Sau đó do vợ chồng ông Thông không có tiền nên hai bên thỏa thuận lại là chỉ chuyển nhượng một nửa, tức 1.400m2 đất, hai bên đã tiến hành giao nhận đất, nhà và tài sản trên đất”.
Tuy nhiên, nội dung nhận định trên mâu thuẫn với nội dung Biên bản hòa giải không thành ngày 6/9/2007 lập tại UBND xã Tân Hải, ở phần Kết luận của bản hòa giải này có nội dung:
“Theo hướng giải quyết của UBND xã: Hai bên giải quyết theo hai hướng: Thứ nhất ông Hồng giao đất cho vợ chồng ông Thông; hướng thứ hai ông Hồng trả lại 8 chỉ vàng cho ông Thông, vợ chồng ông Hồng không đồng ý bán đất nữa; số vàng 8 chỉ ông Hồng sẽ trả lại cho vợ chồng ông Thông. Theo ý kiến của vợ chồng ông Thông: Vợ chồng ông Thông không đồng ý nhận lại số vàng mà yêu cầu ông Hồng giao đất cho vợ chồng ông Thông theo như sự thỏa thuận mua bán trước đây.
Hòa giải không thành: Hai bên đều không thống nhất được ý kiến của nhau, Ủy ban xã Tân Hải sẽ chuyển hồ sơ tranh chấp này lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật. Biên bản lập xong vào lúc 14.00 cùng ngày được đọc lại cho mọi người cùng nghe”.
Có thể thấy, tranh chấp về việc năm 1992, vợ chồng ông Thông mua (giấy tay) 2.800m2 đất của ông Hồng, giá 16 chỉ vàng (đã thanh toán 8 chỉ vàng), đến ngày 6/9/2007 hòa giải không thành. Căn cứ biên bản hòa giải này thể hiện không có việc: “Do vợ chồng ông Thông không có tiền nên hai bên thỏa thuận lại là chỉ chuyển nhượng một nửa, tức 1.400m2 đất, hai bên đã tiến hành giao nhận đất, nhà và tài sản trên đất”, như nhận định tại các bản án, quyết định của Tòa án nói trên. Sự thật mâu thuẫn này, thể hiện nhận định nói trên có dấu hiệu làm sai lệch hồ sơ vụ án; là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Mục 3, Điều 352 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ).
Đây là căn cứ thứ nhất để tôi mong muốn được báo cáo, kiến nghị với đồng chí Bí thư Tỉnh ủy.
Ông Nguyễn Hữu Hồng trình bày sự việc với Chương trình Hộp thư truyền hình Đài TP-TH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. |
Hai, Quyết định Kháng nghị giám đốc thẩm số: 14/2017/QDKNGDT - VKS - DS ngày 19/12/2017 của Viện trưởng Viện KSND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh, đối với Bản án dân sự phúc thẩm số: 13/2017/DSPT ngày 20/2/2017 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, khẳng định: “Tòa án hai cấp công nhận hợp đồng và cho rằng việc chuyển nhượng đất là có thật, ông Thông đã trả đủ tiền và đã nhận đất sử dụng từ khi nhận chuyển nhượng đến nay. Do đó, dù hợp đồng có vi phạm về hình thức nhưng áp dụng Nghị quyết 02/2004 thì có căn cứ để công nhận hợp đồng. Nhận định trên của Tòa án là không chính xác, bởi lẽ: Thời điểm ông Thông, ông Hồng chuyển nhượng đất, pháp luật thời kì này nghiêm cấm việc chuyển nhượng, mua bán đất đai. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Thông, ông Hồng là vi phạm cả nội dung và hình thức.
Mặt khác, tài liệu thể hiện, quá trình sử dụng đất tranh chấp như sau: Từ sau khi chuyển nhượng đất cho ông Thông, ông Hồng vẫn tiến hành quản lí, sử dụng và đã nhiều lần bán cho nhiều người khác nhau (năm 1992, hiến 600m2 đất cho giáo xứ; năm 1995, bán cho ông Hải 350m2; năm 2002, bán cho bà Bá 408m2, ông Hậu 356m2; năm 2007 bán cho bà Mai 408m2, trong đó có 140m2 là nằm trong diện tích đất tranh chấp). Như vậy, quá trình sử dụng ông Hồng kê khai đăng kí quyền sử dụng đất và chuyển nhượng đất cho nhiều người, nhưng ông Thông không có ý kiến gì. Bên cạnh đó, hợp đồng lập từ năm 1992 nhưng hai bên cũng không tiến hành bàn giao đất, không đo đạc đất trên thực địa, ông Thông không trực tiếp sử dụng, không kê khai đăng kí đất, cũng không trồng cây lâu năm, làm nhà trên đất, không đóng thuế đất. Năm 2017, ông Hồng thế chấp quyền sử dụng đất cho Ngân hàng Quân đội, ông Thông cũng không có ý kiến phản đối. Như vậy, không có cơ sở để công nhận hợp đồng chuyển nhượng bằng giấy tay năm 1992 giữa ông Thông và ông Hồng”.
Viện trưởng Viện KSND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh khẳng định: “Hợp đồng lập từ năm 1992 nhưng hai bên cũng không tiến hành bàn giao đất, không đo đạc đất trên thực địa, ông Thông không trực tiếp sử dụng, không kê khai đăng kí đất, cũng không trồng cây lâu năm, làm nhà trên đất, không đóng thuế đất”. Và căn cứ nội dung khẳng định này cho thấy có mâu thuẫn khi các bản án, quyết định của Tòa án nói trên nhận định là: “Sau đó do vợ chồng ông Thông không có tiền nên hai bên thỏa thuận lại là chỉ chuyển nhượng một nửa, tức 1.400m2 đất, hai bên đã tiến hành giao nhận đất, nhà và tài sản trên đất”.
Điều mâu thuẫn trên là căn cứ thứ hai để tôi mong muốn được báo cáo, kiến nghị với đồng chí Bí thư Tỉnh ủy.
Ba, quá trình giải quyết vụ án, các cấp Tòa án có viện dẫn điểm b.3, tiểu mục 2.2, mục 2, phần II NQ 02/2004 ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao. Nội dung điểm b.3 quy định bắt buộc Nguyên đơn - vợ chồng ông Thông phải có nhận đất, phải có xây nhà, xây dựng công trình, phải có trồng cây lâu năm và phải có kinh doanh trên đất tranh chấp. Trong khi, hồ sơ vụ án thể hiện Viện KSND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh khẳng định: Nguyên đơn - vợ chồng ông Thông không nhận đất, không xây nhà, nên không thể xây dựng công trình, không trồng cây lâu năm và không kinh doanh gì trên đất tranh chấp. Điều này, cho thấy các cấp Tòa án đã viện dẫn điều luật để áp dụng đối với nội dung vụ án không chính xác, có dấu hiệu ra quyết định, bản án không khách quan.
Đây là căn cứ thứ ba để tôi mong muốn được báo cáo, kiến nghị với đồng chí Bí thư Tỉnh ủy.
Bốn, trong hồ sơ vụ án có một chứng cứ là “Giấy biên nhận” ngày 6/5/1992 (viết tay) không đúng quy định của pháp luật về hình thức. Về nội dung “Giấy biên nhận” này, thể hiện bên nhận chuyển nhượng mới giao 8 chỉ vàng (50%), chưa “thực hiện hơn hai phần ba nghĩa vụ giao dịch”. Thế nhưng, Bản án Phúc thẩm số 13 lại coi “Giấy biên nhận” này là Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và công nhận “Hợp đồng có hiệu lực”; và Quyết định Giám đốc thẩm số: 178/2018/DS-GĐT ngày 16/5/2018 của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh: Giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số 13 này, là thể hiện trái với quy định tại Điều 129, Bộ luật Dân sự năm 2015.
Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức: “Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây: Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.”
Căn cứ quy định Điều 129 trên, cho thấy các cấp Tòa án đã áp dụng điều luật sai đối tượng (“Giấy biên nhận” viết tay ngày 6/5/1992) không đúng quy định của pháp luật về hình thức; và một bên hoặc các bên chưa thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch.
Đây là căn cứ thứ tư để tôi mong muốn được báo cáo, kiến nghị với đồng chí Bí thư Tỉnh ủy.
Là đảng viên, thực hiện chỉ đạo của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Cái gì đúng phải bảo vệ, cái làm không đúng phải phản đối, đấu tranh”; và căn cứ Điều 5 Luật Người cao tuổi năm 2009, tôi trân trọng kính đề nghị Qúy game bài đổi thưởng tiền that xem xét, giải quyết theo thẩm quyền về những nội dung tôi xin đăng kí để được báo cáo, kiến nghị với đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa- Vũng Tàu”.
Thực hiện Điều 5 Luật Người cao tuổi năm 2009, game bài đổi thưởng tiền that trân trọng kính đề nghị đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu giải quyết nguyện vọng của người cao tuổi, đảng viên Nguyễn Hữu Hồng; khi có kết quả xin được thông báo để Tạp chí trả lời người cao tuổi và bạn đọc theo quy định.