“Đèn trời” đã soi sáng sau 24 năm đi tìm công lí
Pháp luật - Bạn đọc 01/11/2024 19:53
Nội dung vụ án:
Ngày 25/9/2024 tại TAND TP Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Lê Văn Ngọc, 70 tuổi, ở số 143/10 đường Phan Đăng Lưu, phường 2, quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh. Bị đơn: ông Đoàn Hữu Hạnh, ông Đoàn Minh Đức, cùng: Số 537 Quốc lộ 13, khu phố 5, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh.
Phía nguyên đơn, ông Lê Văn Ngọc trình bày:
Ngày 11/11/1995, ông Ngọc nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Đời (ủy quyền cho con là ông Nguyễn Hữu Chắng) một nền nhà (đất thổ cư), ở Quốc lộ 13, lô 306, tờ bản đồ số 10, ấp 3, xã Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh diện tích 318m2 (diện tích đo đạc giải quyết tranh chấp là 295m2), với giá 48 lượng vàng 9T6, quy ra tiền khi thanh toán. Ông Ngọc đã trả tiền đầy đủ cho ông Chắng, đồng thời còn trả thêm cho ông Chắng 3 lượng vàng là tiền san lấp. Ông Ngọc đã nhận đất và cho người bà con là Nguyễn Thị Tựu ở giữ đất cho đến nay. Ngày 30/9/1999, ông Ngọc kí thoả thuận bồi hoàn hoa màu trên đất với ông Nguyễn Văn Đời, diện tích đất bồi hoàn 318m2 đất trên.
Hợp đồng ngày 11/11/1995, chuyển nhượng một nền nhà (đất thổ cư), diện tích 318m2 (diện tích đo đạc giải quyết tranh chấp là 295m2), giữa ông Chắng và ông Ngọc. |
Năm 1999, ông Ngọc làm đơn xin phép sử dụng một phần 176m2 đất làm nhà ở. Ngày 10/1/2000, Phòng Quản lí đô thị quận Thủ Đức có Tờ trình số: 03/TT-ĐĐ gửi UBND TP Hồ Chí Minh về việc xin sử dụng đất, xin giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất cho ông Ngọc. Sau đó, cơ quan thuế quận Thủ Đức chấp nhận cho ông đóng thuế để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ). Sau khi được cơ quan chức năng chấp thuận, ông Ngọc cắm mốc ranh giới đất và rào lưới. Quá trình ông Ngọc cắm ranh đất, bà Châu Thị Dực (mẹ của ông Đoàn Minh Đức và ông Đoàn Hữu Hạnh) ngăn cản và gửi đơn khiếu nại với lí do phần đất của ông Ngọc là của gia đình bà đã mua của ông Nguyễn Văn Cảnh từ năm 1961.
Ông Ngọc khởi kiện yêu cầu Tòa án: Buộc ông Chắng, ông Hạnh và ông Đức phải có nghĩa vụ bàn giao diện tích 318m2 cho ông Ngọc và công nhận quyền sử dụng đất nói trên cho ông Ngọc.
Phía Bị đơn ông Đoàn Minh Đức và Đoàn Hữu Hạnh trình bày:
Các ông là những người đang trực tiếp quản lí, sử dụng nhà và đất tại thửa 467 Tờ bản đồ số 02, xã Hiệp Bình Phước (Tài liệu cũ), thuộc thửa 343 và 01 phần thửa 344 Tờ bản đồ số 02 - Hiệp Bình (Tài liệu Chỉ thị số 299/TTg) nay là thửa 443, 444, 445, 302, một phần thửa 305, 306, 307 Tờ bản đồ số 10 - Hiệp Bình Phước (Tài liệu năm 1992); không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Ngọc.
Đại diện Viện KSND TP Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến và trình bày quan điểm:
Theo Công văn số: 154/CV-ĐĐBĐ ngày 15/4/2003 của Sở Địa chính - Nhà đất TP Hồ Chí Minh về việc xác định vị trí khu đất của ông Ngọc xin sử dụng xây nhà ở do bị đơn cung cấp không có tài liệu gốc để đối chứng nên không thể xem là chứng cứ hợp pháp theo quy định tại Khoản 1, Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đề nghị HĐXX: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngọc về việc công nhận quyền sử dụng đất phần diện tích đất 295m2 trên thuộc quyền sử dụng của ông Ngọc.
Bản án số: 781/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh, quyết định: Công nhận quyền sử dụng đất phần diện tích đất 295m2 nói trên, có tứ cận: Hướng Đông giáp đất người khác; hướng Đông Bắc giáp đất và hướng ra mặt đường Quốc lộ 13; hướng Tây và Nam giáp phần đất của ông Nguyễn Văn Chí và ông Đoàn Minh Đức, ông Đoàn Hữu Hạnh thuộc quyền sử dụng của ông Lê Văn Ngọc.
Những căn cứ của bản án sơ thẩm
Đơn của ông Lê Văn Ngọc viết: “Qua các tài liệu của các cơ quan Hành chính và trình bày trên có cơ sở khẳng định Bản án sơ thẩm số: 781/2024/DS-ST, ngày 25/9/2024 của TAND TP Hồ Chí Minh là khách quan và đúng với bản chất sự thật của các quan hệ dân sự trong giao dịch chuyển nhượng đất và quá trình quản lí sử dụng đất của tôi cũng như hộ gia đình bà Dực và các cá nhân liên quan khác. Bản án sơ thẩm này đã làm rõ ràng những nội dung của vụ án, thể hiện:
Tôi là người sử dụng và quản lí hợp pháp phần đất có diện tích 318m2 (diện tích đo đạc giải quyết tranh chấp là 295m2), thuộc lô 306, Quốc lộ 13, tờ bản đồ 10, toạ lạc tại ấp 3, xã Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức (nay là TP Thủ Đức), TP Hồ Chí Minh). Nguồn gốc phần đất này do tôi mua từ năm 1995 của ông Nguyễn Văn Đời (con ông là Nguyễn Hữu Chắng, đứng ra đại diện hỗ trợ cho ông Đời), theo Hợp đồng chuyển nhượng đất thổ cư ngày 11/11/1995 và hai bên đã thực hiện xong nội dung Hợp đồng chuyển nhượng, bên chuyển nhượng đã giao đất và nhận đủ tiền. Giao dịch mua bán này có ông Phạm Trung Quang là dân sống tại địa phương, có tham gia chứng kiến và đã đứng ra làm chứng trong vụ án này.
Sau khi nhận đất, tôi có dựng tạm hàng rào và cất căn nhà cấp 4 và nhờ bà Nguyễn Thị Tựu (là người thân ở quê vào Sài Gòn mưu sinh) trông coi quản lí và sử dụng làm nơi ở, bà Tựu có thực hiện đăng kí lưu trú với chính quyền địa phương và quản lí sử dụng phần đất này cho đến nay. Trước đó, vào năm 1999, tôi có đơn xin sử dụng một phần diện tích 176m2/318m2 để cất nhà ở. Căn cứ đơn của tôi, ngày 20/12/1999 Phòng Quản lí đô thị UBND quận Thủ Đức đã có báo cáo thực địa về việc xin cất nhà ở của tôi; và ngày 10/1/2000 có Tờ trình số: 03/TT-ĐĐ gửi UBND TP Hồ Chí Minh về việc xem xét công nhận quyền sử dụng đất cho tôi, theo Công văn số: 2339/QĐ-UBĐT ngày 12/04/2000 của UBND TP Hồ Chí Minh và cơ quan thuế quận Thủ Đức đã ra thông báo nộp thuế để xét cấp GCNQSDĐ cho tôi đối với phần diện tích này. (Còn nữa)