Đẩy mạnh chăm sóc NCT trong bối cảnh già hóa dân số
Nghiên cứu - Trao đổi 22/07/2020 16:51
Theo Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), năm 2011, số người từ 60 tuổi trở lên (NCT) chiếm 9,9% dân số cả nước, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số (GHDS); năm 2018, NCT chiếm 11,95% dân số; đến năm 2038, Việt Nam sẽ trở thành nước có dân số rất già, với tỉ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 20,1% dân số. Dự báo đến năm 2049, tỉ lệ NCT sẽ chiếm khoảng 25% dân số, tức là cứ 4 người dân có một NCT.
Theo dự báo, Việt Nam là một trong số những quốc gia có tốc độ GHDS nhanh nhất thế giới. Trong khi các nước phát triển mất nhiều thập kỉ, có nước mất hàng thế kỉ mới chuyển đổi từ giai đoạn GHDS sang giai đoạn dân số già như: Pháp 115 năm; Australia 73 năm; Trung Quốc 26 năm… nhưng ở Việt Nam chỉ mất 15 năm.
Có đến 68% NCT sống ở nông thôn, là nông dân và làm nông nghiệp; đời sống vật chất còn nhiều khó khăn. Xuất hiện tình trạng nữ hóa ở NCT với tỉ số giới tính nghiêng về nữ giới khi độ tuổi ngày càng cao, sự gia tăng tỉ lệ góa và tình trạng NCT sống một mình. 72,3% NCT sống với con, cháu trong khi xu hướng cấu trúc gia đình thay đổi, chuyển dần từ gia đình truyền thống sang gia đình hạt nhân. Việc phải sống một mình rất bất lợi đối với NCT, bởi gia đình luôn là chỗ dựa cơ bản cho mỗi thành viên khi về già.
Tăng cường các hoạt động văn hóa thể thao phù hợp cho NCT |
Về sức khỏe NCT cũng còn nhiều hạn chế. Tuy tuổi thọ trung bình cao (73 tuổi) nhưng số năm sống khỏe mạnh của Việt Nam là khoảng 64 tuổi. Gánh nặng bệnh tật kép (khoảng 95% NCT có bệnh) và trung bình mỗi NCT Việt Nam mắc 3 bệnh.
Theo các chuyên gia, GHDS là một trong những thành tựu lớn của nhân loại, chứng minh sự cải thiện đáng kể về y tế, dinh dưỡng và phát triển kinh tế - xã hội, mang đến những cơ hội lớn cho mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. Cùng với quá trình GHDS, Việt Nam cũng đang ở trong thời kì cơ cấu dân số vàng khi tỉ lệ người trong độ tuổi lao động lớn hơn tỉ lệ người trong độ tuổi phụ thuộc. Lợi thế dân số vàng nếu tận dụng tốt, sẽ là điều kiện để cải thiện cuộc sống cho nhóm dân số cao tuổi trong tương lai.
Tuy nhiên đối với một đất nước chỉ mới thoát nghèo như Việt Nam, GHDS đã đặt ra thách thức lớn đối với nền kinh tế và an sinh xã hội như nhận thức, hành vi của người dân chưa thích ứng với giai đoạn GHDS; hệ thống an sinh xã hội còn nhiều bất cập; hệ thống chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của NCT; nhiều khó khăn trong công tác lập kế hoạch, hoạch định chính sách cho NCT…
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa các mô hình chăm sóc NCT |
Sớm nhận thức rõ tầm quan trọng của NCT và vấn đề GHDS, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến NCT. Chỉ thị số 59-CT/TW ngày 27/9/1995 của Ban Bí thư chỉ rõ: “NCT có công sinh thành, nuôi dạy con cháu, giữ gìn và phát triển giống nòi, giáo dục các thế hệ thanh niên Việt Nam về nhân cách, phẩm chất và lòng yêu nước… Việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của NCT là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội… Chăm sóc và phát huy tốt NCT là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và đạo đức”. Năm 2009, Quốc hội khóa XII thông qua Luật NCT quy định về quyền và nghĩa vụ của NCT; trách nhiệm của gia đình, xã hội trong việc phụng dưỡng, chăm sóc và phát huy NCT.
Đảng, Nhà nước ta cũng có nhiều chính sách về an sinh xã hội dành cho NCT như chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và trợ cấp xã hội… Tuy vậy, mới hỗ trợ nâng cao đời sống cho một bộ phận NCT. Trong khi phần lớn NCT hiện nay được sinh ra, trưởng thành trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, ít có điều kiện chăm sóc sức khỏe và tích lũy vật chất cho tuổi già. Mặt khác, nước ta còn nghèo nhưng lại phải giải quyết cùng lúc nhiều vấn đề liên quan, trong đó đó có hệ thống an sinh xã hội.
Phát huy vai trò NCT phát triển kinh tế gia đình, cải thiện đời sống |
Khi tuổi càng cao thì sức khỏe ngày càng yếu. Mô hình bệnh tật ở nước ta nói chung và ở NCT nói riêng đang thay đổi nhanh chóng, chuyển từ mô hình chủ yếu là bệnh lây nhiễm sang mô hình chủ yếu là những bệnh không lây nhiễm. NCT còn phải đối diện với nguy cơ tàn phế do quá trình lão hóa và tác động của các căn bệnh mạn tính, đe dọa đến khả năng sống độc lập làm cho nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCT ngày càng tăng. Hệ thống y tế, lão khoa chưa đầy đủ và trang bị chưa đáp ứng nhu cầu để giải quyết các bệnh của NCT. Hiện tại, NCT nghèo và NCT sống ở nông thôn, vùng sâu vùng xa ít có khả năng tiếp cận được dịch vụ chăm sóc cần thiết. NCT nước ta phần đông là nữ, tỉ lệ góa chồng cao trong khi phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn so với nam giới cao tuổi xét về thu nhập, tình trạng khuyết tật, khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế. Vì vậy cũng tạo thách thức lớn trong chăm sóc sức khỏe NCT.
Như vậy, hệ thống văn bản pháp luật về NCT ở nước ta đã tạo điều kiện để phát huy và nâng cao chất lượng chăm sóc NCT. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện để chính sách đi vào cuộc sống còn hạn chế, việc chăm sóc đời sống tinh thần và phát huy vai trò NCT hiện vẫn do Hội NCT đảm nhiệm là chủ yếu. Vì vậy, nhận thức của người dân về vai trò của NCT, việc phát huy, chăm sóc NCT chưa đáp ứng yêu cầu đề ra, đặc biệt trong bối cảnh NCT ở nước ta bước vào giai đoạn tăng nhanh cả về số lượng và tỉ lệ.
Trong mọi giai đoạn phát triển đất nước, Đảng và Chính phủ luôn quan tâm chăm lo đời sống NCT về vật chất, tinh thần và sức khỏe. Tuy nhiên, do tốc độ GHDS tăng nhanh, số lượng và tỉ lệ NCT tăng cao sẽ làm tăng gánh nặng kinh tế, xã hội để duy trì ổn định cuộc sống khỏe mạnh của nhóm NCT.
(Còn nữa)