Có nhiều tình tiết mới để người cao tuổi đề nghị cấp trên xem xét, giải quyết lại vụ án
Pháp luật - Bạn đọc 29/09/2023 16:53
Tuy nhiên, quy định trên đã trở thành ngoại lệ khi toà án giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất (QSDĐ) trong vụ án dưới đây. Hồ sơ thể hiện có nhiều tình tiết mới, là cơ sở để đương sự là người cao tuổi mong muốn được các cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết lại toàn bộ vụ án...
Nội dung vụ án
Đến nay, đã có 8 bản án của 2 cấp Tòa án ở tỉnh Bình Định, Đà Nẵng và một Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao ở Hà Nội về giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Đào, sinh 1953, ngụ 211/22 Luỹ Bán Bích, phường Hiệp Tân, quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Mỹ Lợi, sinh 1957; ngụ thôn Thiết Đính Bắc, xã Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn (nay là phường Bồng Sơn, thị xã Hoài Nhơn), tỉnh Bình Định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Có 7 người, trong đó có cụ Bùi Đá, sinh 1932, ngụ thôn Đệ Đức 1, xã Hoài Tân, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định và UBND thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Bùi Mon. |
Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2009/DSST ngày 23/4/2009 và Thông báo sửa chữa, bổ sung Bản án số: 2749/2009/TB-TA ngày 10/7/2009, TAND tỉnh Bình Định quyết định: Xác định diện tích đất 6.054,6m2 thuộc thửa 84, tờ bản đồ số 18 Thiết Đính Bắc, phường Bồng Sơn, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thuộc quyền sử dụng của vợ chồng cụ Bùi Thị Cẩm, cụ Trần Cung (đều đã chết). Ông Trần Ngọc Bích và bà Đào được thừa kế.
Giao bà Lợi được quyền sở hữu, sử dụng quyền sử dụng 1.749,3m2 đất gắn liền với nhà ở, cây ăn trái lâu năm (có sơ đồ). Giao bà Đào sử dụng 4.305,3m2 đất gắn liền với nhà ở, cây ăn trái lâu năm và mồ mả gia đình bà Đào (có sơ đồ).
Kiến nghị UBND thị xã Hoài Nhơn điều chỉnh lại GCNQSDĐ đã cấp chứng nhận cho hộ gia đình ông Bùi Mon,Số sổ: 00856 ngày 21/2/1997.
Bản án dân sự phúc thẩm số:73/2009/DSPT ngày 25/9/2009, Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng quyết định: Hủy Bản án số: 03/2009/DSST ngày 23/4/2009 của TAND tỉnh Bình Định. Chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Bình Định giải quyết lại vụ án.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2014/DSST ngày 20/5/2014, TAND tỉnh Bình Định tuyên bác đơn khởi kiện của bà Đào.
Giấy CN QSDĐ đã cấp cho hộ gia đình ông Bùi Mon số sổ 00856 ngày 21/2/1997 |
Bản dân sự phúc thẩm số: 57/2014/DS-PT ngày 29/8/2014, Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đào. Giao cho bà Lợi được quyền quản lí sử dụng 276m2 đất (trong đó có 200m2 đất ở và 76m2 đất vườn) nằm trong tổng diện tích 5.794m2 thuộc thửa 818, tờ bản đồ số 23 Thiết Đính Bắc, phường Bồng Sơn, thị xã Hoài Nhơn (có sơ đồ). Buộc bà Lợi giao trả cho bà Đào đất vườn còn lại là 5.518m2 tại thửa 818, tờ bản đồ số 23 Thiết Đính Bắc, phường Bồng Sơn, thị xã Hoài Nhơn. Bà Đào được quyền quản lí và sử dụng diện tích 5.518m2 đất vườn tọa lạc tại địa chỉ trên do bà Lợi giao.
Ngày 17/3/2016, bà Lợi có đơn đề nghị xem xét Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định Giám đốc thẩm số: 03/2018/DS-GĐT ngày 9/4/2018, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao nhận định: Nguyên đơn bà Đào được thừa kế từ gia tộc họ Bùi, nhưng từ sau năm 1975, các con của cụ Cẩm là bà Đào, ông Bích không quản lí, sử dụng, không kê khai đăng kí và không thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Bị đơn là bà Lợi là người quản lí, sử dụng từ năm 1977, đăng kí kê khai và được UBND thị xã Hoài Nhơn cấp GCNQSDĐ ngày 21/2/1997 cho hộ ông Mon (chồng bà Lợi, chết năm 2003). Quyết định: Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số: 57/2014/DS-PT ngày 29/8/2014 của Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2014/DSST ngày 20/5/2014 của TAND tỉnh Bình Định. Giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định.
Đơn khởi kiện ngày 31/3/2008” của nguyên đơn bà Đào viết: “Để xử lí thu hồi sổ đỏ (GCNQSDĐ) bất hợp pháp đã cấp cho gia đình ông Mon và bà Lợi” |
Bản án số: 29/2019/DS-ST ngày 19/9/2019 của TAND tỉnh Bình Định quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đào về việc đòi lai toàn bộ diện tích đất, thửa số 818 tờ bản đồ số 23 tại thôn Thiết Đính Bắc, phường Bồng Sơn, thị xã Hoài Nhơn; và yêu cầu hủy GCNQSDĐ mà UBND thị xã Hoài Nhơn đã cấp cho hộ ông Mon ngày 21/2/1997.
Bản án số: 158/2020/DS-PT ngày 22/7/2020 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng tuyên: “Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 29/2019/DS-ST ngày 19/9/2019 của TAND tỉnh Bình Định; chuyển hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Bình Định giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định.
Bản án số: 33/2022/DS-ST ngày 20/9/2022 của TAND tỉnh Bình Định tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đào.
Bản án số: 32/2023/DS-PT ngày 20/2/2023 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng tuyên: Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 33/2022/DS-ST ngày 20/9/2022 của TAND tỉnh Bình Định.
Cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Bùi Mon đúng quy định của pháp luật
Trong “Bản tự khai” ngày 15/5/2019 (BL số 308) của ông Hồ Hưởng, Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Hoài Nhơn, đại diện hợp pháp của UBND thị xã Hoài Nhơn, với nội dung:
“Bản tự khai” ngày 15/5 /2019 (BL số 308) của ông Hồ Hưởng, Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Hoài Nhơn, đại diện hợp pháp của UBND thị xã Hoài Nhơn |
“Một: Thực hiện Chỉ thị 299-TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ, thửa đất số 818, tờ bản đồ số 23 (bản đồ năm 1997), được đo đạc thể hiện tại thửa đất số 542, tờ bản đồ số 04, diện tích 5.962m2 (bản đồ năm 1985), do ông Bùi Mon (chồng bà Lợi) kê khai đăng kí, sử dụng đất tại trang 133, quyển số 01 Sổ mục kê đất đai lập năm 1982. Khi có chủ trương thành lập Hợp tác xã nông nghiệp, hộ ông Mon còn gọi Bùi Văn Mon có đơn xin vào HTX nông nghiệp xã Bồng Sơn, thị xã Hoài Nhơn, đơn đề ngày 21/8/1978.
Hai: Thực hiện Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ ban hành kèm theo bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Hộ ông Mon có 6 khẩu gồm: Ông Mon (chủ hộ), bà Lợi (vợ) và 4 người con. Một nhân khẩu được nhận diện tích quy chuẩn là 318,33m2. Như vậy, hộ ông Mon có 6 khẩu x 318,33m2 = 1.909,98m2 đất.
Ruộng đất đã cân đối xét cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Mon, gồm: Thửa đất số 818, tờ bản đồ số 23 (bản đồ 1997), 5.794m2, trong đó 200m2 đất ở được trừ ra không cân đối, còn lại 5.594m2 đất vườn hạng 6: 4,07 (hệ số điều chỉnh) = 1.374,44m2 đất quy chuẩn. Thửa đất số 756, tờ bản đồ số 23 (bản đồ 1997), 1.080m2, loại đất màu, hạng 6: 4,07 (hệ số điều chỉnh) = 265,35m2 đất quy chuẩn.
Quyết định Giám đốc thẩm số 03/2018/DS-GĐT ngàỵ 9/4/2018 CỦA Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao |
Như vậy đất quy chuẩn của 2 thửa đất trên là 1.639,79m2. Cân đối giữa 6 nhân khẩu và diện tích đất quy chuẩn hộ ông Mon được nhận, cho thấy: 1.909,98m2 - 1639,79m2 = 270,1m2 đất quy chuẩn còn thiếu của hộ ông Mon.
Từ nội dung trên, căn cứ Luật Đất đai năm 1993, UBND thị xã cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Bùi Mon diện tích 5.794m2 đất nói trên là đúng theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật. Đề nghị TAND tỉnh Bình Định xem xét, xét xử đúng quy định của Luật Đất đai. Tôi cam đoan lời khai trên là đúng sự thật”.
Tình tiết mới thứ nhất: Có dấu hiệu thụ lí, giải quyết vụ án sai thẩm quyền.
Trong hồ sơ vụ án thể hiện: Có Quyết định Giám đốc thẩm số: 03/2018/DS-GĐT ngày 9/4/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, ghi nhận: Tòa án thụ lí giải quyết “Đơn khởi kiện ngày 31/3/2008” của nguyên đơn là bà Đào; “Đại diện của nguyên đơn yêu cầu huỷ GCNQSDĐ đứng tên bà Lợi và ông Mon, để trả lại đất cho bà Đào”; “Đơn khởi kiện ngày 31/3/2008” của nguyên đơn bà Đào viết: “Để xử lí thu hồi sổ đỏ (GCNQSDĐ) bất hợp pháp đã cấp cho gia đình ông Mon và bà Lợi”; “Giấy triệu tập phiên tòa” số 541/GTT - PT ngày 30/1/2023, của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng, tại phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy GCNQSDĐ”, giữa nguyên đơn là bà Đào với bị đơn là bà Lợi.
Từ đó có thể thấy, trong suốt quá trình giải quyết vụ án trên đây (từ tháng 3/2008 đến tháng 2/2023), Tòa án xác định thụ lí giải quyết vụ án về tranh chấp pháp lí: Yêu cầu hủy GCNQSDĐ; và xác định thẩm quyền giải quyết thuộc tòa án dân sự.
“Giấy triệu tập phiên tòa” số 541/GTT – PT ngày 30/1/2023, của Toà án nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng, triệu tập bà Lợi, có mặt tại phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án dân sự "Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy CNQSD đất" |
Tuy nhiên, thẩm quyền về thụ lí giải quyết vụ án: Yêu cầu hủy việc cấp GCNQSDĐ, thuộc thẩm quyền của Cơ quan hành chính, Toà án hành chính giải quyết, theo hướng dẫn đường lối giải quyết các khiếu kiện, các tranh chấp đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng (Công văn số: 169/2002/KHXX ngày 15/12/2002 của TAND Tối cao), cụ thể:
Cơ quan có thẩm quyền đã quyết định hoặc bằng văn bản về thu hồi đất, hoặc giao đất cho người khác sử dụng khi thực hiện chính sách cải tạo của Nhà nước; Theo nguyên tắc Nhà nước không công nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước. Tòa án căn cứ vào Điều 1 Luật Đất đai năm 1987; Khoản 2, Điều 2 Luật Đất đai năm 1993 và Khoản 2, Điều 10 Luật Đất đai năm 2003; Bộ luật Dân sự; Điều 25, Điều 168, Khoản 2, Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự để xử lí.
Nếu đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy việc cấp GCNQSDĐ, thì việc khởi kiện này thuộc của cơ quan hành chính, Tòa án hành chính giải quyết.
Tình tiết mới thứ hai: Chưa xem xét giải quyết quy định: Trường hợp chủ đất cũ không kê khai, không đứng tên trong sổ đăng kí đất hoặc sổ địa chính, không thực hiện quyền quản lí, sử dụng của chủ sử dụng đất; còn người đang sử dụng đất đã kê khai, đăng kí đứng tên trong sổ bộ ruộng đất hoặc sổ địa chính; được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục cấp GCNQSDĐ có căn cứ pháp luật, thực hiện đúng quy định của Luật Đất đai các năm 1987, năm 1993, năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan thì nay chủ đất cũ không thể đòi lại quyền sử dụng đất đó.
Cụ thể: Hồ sơ vụ án có “Giấy xác nhận” ngày 16/12/2022, của ông Trần Dụ, sinh năm 1949, ngụ tổ 2, khu phố Thiết Đính Nam, phường Bồng Sơn, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, thể hiện: Từ năm 1980, mảnh đất số hiệu 49, diện tích 1 mẫu 2 sào 2 thước, giới cận 46-50-51-52, Đệ Đức 48, bản đồ số 3, xứa Bàu Sen, địa bộ Thiết Đính, nay là thửa đất 818, tờ bản đồ số 23 (bản đồ năm 1997) diện tích 5.794m2 tại khu phố Thiết Đính Bắc, phường Bồng Sơn, thị xã Hoài Nhơn đã được đưa vào Hợp tác xã (HTX); và không còn thuộc quyền quản lí của HTX nông nghiệp Đệ Đức và chủ đất cũ; HTX Thiết Đính đã toàn quyền chuyển mảnh đất này cho hộ ông Mon, bà Lợi quản lí sử dụng và cấp đất cho hộ ông Mon, bà Lợi.
“Giấy xác nhận” của ông Trần Dụ, có nội dung: Từ năm 1980, đất tranh chấp không còn thuộc quyền quản lý của HTX nông nghiệp Đệ Đức và chủ đất cũ. |
“Giấy xác nhận” của ông Trần Dụ, có nội dung: “Thời điểm 1979 -1980, ở Bồng Sơn thành lập HTX nông nghiệp Thiết Đính, ở Hoài Tân thành lập HTX nông nghiệp Đệ Đức. Trong số đất HTX Đệ Đức thống nhất bàn giao cho HTX Thiết Đính quản lí điều hành sản xuất có mảnh đất số hiệu 49 nói trên. Từ năm 1980, mảnh đất trên không còn thuộc quyền quản lí của HTX nông nghiệp Đệ Đức và chủ đất cũ. Nên HTX Thiết Đính đã toàn quyền chuyển mảnh đất này cho hộ ông Mon, bà Lợi quản lí sử dụng và cấp đất cho hộ ông Mon, bà Lợi theo hộ khẩu Thiết Đính và cấp bình quân theo nhân hộ khẩu”. “Giấy xác nhận” này, được ông Nguyễn Văn Thông, Chủ tịch UBND phường Bồng Sơn chứng thực ngày 16/12/2022.
Từ hồ sơ vụ án, đối chiếu với các quy định của pháp luật, cho thấy: Đối với trường hợp đất đã được đưa vào tập đoàn sản xuất, HTX (hộ gia đình ông Mon, bà Lợi), mà sau đó các tổ chức này giải thể thì được giải quyết tranh chấp theo quy định tại tiểu mục 2.4 mục 2 phần II Nghị quyết số 02/2004-NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao ngày 10/8/2004. Theo đó, đất được cá nhân, tổ chức đưa vào tập đoàn sản xuất, HTX trong quá trình thực hiện chính sách hợp tác hóa nông nghiệp và các tổ chức này đã giao đất đó cho người khác sử dụng, thì Tòa án căn cứ vào Điều 1, Luật Đất đai năm 1987, Khoản 2, Điều 2 Luật Đất đai năm 1993 và Khoản 2, Điều 10 Luật Đất đai năm 2003 và Bộ luật Dân sự xử lí và giải quyết theo quy định của pháp luật. Còn chủ đất cũ hoặc người thừa kế không kê khai, không được cấp GCNQSDĐ (nguyên đơn bà Đào), thì Tòa án không nhận đơn khởi kiện, nếu đã thụ lí thì bác yêu cầu đòi lại đất của chủ cũ.
Nói cho rõ hơn, trường hợp chủ đất cũ không kê khai, không đứng tên trong sổ đăng kí đất hoặc sổ địa chính, không thực hiện quyền quản lí, sử dụng của chủ sử dụng đất; còn người đang sử dụng đất đã kê khai, đăng kí đứng tên trong sổ bộ ruộng đất hoặc sổ địa chính; được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục cấp GCNQSDĐ có căn cứ pháp luật, thực hiện đúng quy định của Luật Đất đai năm 1987, năm 1993, năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan thì nay chủ đất cũ không thể đòi lại quyền sử dụng đất đó.
Nguyện vọng của người cao tuổi
Trong đơn gửi các cơ quan chức năng có thẩm quyền, người cao tuổi là bà Nguyễn Thị Mỹ Lợi nêu: “Tôi hiểu rằng không phải tất cả các vụ án đều hoàn hảo, và hệ thống tư pháp cũng có thể có sai sót. Tuy nhiên, trong trường hợp của tôi, sự thiếu minh bạch và công bằng đã được thể hiện khá rõ ràng. Hiện nay bản án đã có hiệu lực pháp luật và đang thi hành án. Điều này không chỉ đã ảnh hưởng rất lớn đến tài sản và cuộc sống của gia đình tôi, mà còn gây tổn thương đến lòng tin của một bộ phận Nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật. Và trong hồ sơ vụ án còn nhiều nội dung thể hiện có nhiều tình tiết mới, nên tôi có đơn này kính đề nghị cấp trên xem xét, giải quyết lại toàn bộ vụ án có lí, có tình đúng với quy định của pháp luật. Tôi tin tưởng rằng, báo chí có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự công bằng và minh bạch trong hệ thống pháp luật; qua việc đưa tin về trường hợp của tôi, có thể góp phần làm sáng tỏ những thiếu sót và bất công có thể đã xảy ra”.
game bài đổi thưởng tiền that chuyển nguyện vọng của người cao tuổi là bà Nguyễn Thị Mỹ Lợi đến các cơ quan có thẩm quyền: TAND Tối cao và Viện KSND Tối cao xem xét, giải quyết theo quy định.