Chuyện “lạ” ở Cục Thuế TP Hồ Chí Minh: “Tiếp tay” cho doanh nghiệp trốn thuế, chiếm đoạt hơn 14 tỉ đồng tiền ngân sách? (Tiếp theo kì trước)
Pháp luật - Bạn đọc 23/10/2019 09:31
Cán bộ thuế “tiếp tay” khai gian, trốn thuế ?!
Chứng cứ kê khai gian lận thuế
Theo “Biên bản kiểm tra thuế” trong 2 năm (2007 - 2008) được Cục Thuế TP Hồ Chí Minh cung cấp cho TAND TP Hồ Chí Minh (được đánh số bút lục trong hồ sơ vụ án), thời gian bà Hương làm Giám đốc Công ty Quảng Hưng, thể hiện dấu hiệu kê khai gian lận thuế có sự “tiếp tay” của một số cán bộ thuế.
Thứ nhất, về phần thuế Giá trị gia tăng (GTGT) năm 2007:
Tại Bút lục (BL) 1653, 1652, phần mua vào, bà Hương kê khai trong năm 2007, giá trị hàng hóa dịch vụ (HHDV) mua vào là 8.720.666.528 đồng, với số thuế GTGT được khấu trừ là 1.185.613.619 đồng. Đoàn kiểm tra thuế điều chỉnh lại số thuế GTGT được khấu trừ thành là 666.103.835 đồng.
Trong khi trên thưc tế, bà Hương không hề bỏ đồng vốn nào, cũng không hoạt động kinh doanh (BL số 1532 - 1534). Vì kể từ sau ngày 12/4/2007, là thời điểm bà Hương được cấp Giấy chứng nhận là người đại diện pháp lí của Công ty Quảng Hưng (BL 1107), mà chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng, bà Hương đã cho tẩu tán “sạch bách” tài sản của Công ty, đồng thời cho dời Công ty Quảng Hưng (khi ấy tài sản Công ty chỉ còn lại cái bảng hiệu) từ Khu công nghiệp Tân Tạo chuyển đến “trú ẩn” tại căn nhà cấp 4 treo bảng hiệu “thu mua sắt vụn” tại số 94, Mã Lò, phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân (BL 243; BL 183 và video- clip). Vì vậy, con số kê khai HHDV mua vào mà đến hơn 8,7 tỉ đồng nêu trên của bà Hương là con số không hợp lí.
Bút lục số 243 |
Cần nói rõ thêm, ngày nào bà Hương tiếp nhận Công ty Quảng Hưng? Trong khi ngày 12/4/2007, bà Hương mới được Sở KH&ĐT xác nhận là có tư cách pháp nhân của Công ty Quảng Hưng; và ngày 25/5/2007, bà Hương bàn giao Công ty này cho Công ty Tân Tạo, rồi chuyển qua Mã Lò. Vậy, trong thời gian chưa đầy 2 tháng, làm gì để ra con số kê khai HHDV mua vào là 8.720.666.528 đồng? Tại sao Công ty đang hoạt động, bà Hương lại chuyển về Mã Lò, treo bảng hiệu: “Thu mua sắt vụn”?
Về phần bán ra (BL 1652): Bà Hương kê khai trong năm 2007, tổng giá trị HHDV bán ra chịu thuế GTGT là 22.578.025.520 đồng, với số thuế GTGT phải nộp là 1.325.094.825 đồng; Còn số của Đoàn kiểm tra thuế (KTT) đã điều chỉnh lại tổng giá trị HHDV bán ra là 22.881.609.475 đồng, với số thuế GTGT phải nộp là 1.355.453.221 đồng (Trong này gồm: Phần HHDV bán ra 804.247.050 đồng với thuế suất GTGT 5% là 40.212.353 đồng; Phần HHDV bán ra 13.152.408.653 đồng, với thuế suất GTGT 10% là 1.315.240.868 đồng).
Nhưng, không hiểu sao lại có con số phần HHDV bán ra 8.924.953.772 đồng được hưởng thuế suất GTGT 0% (!?), trong khi theo Biên bản KTT, phần thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) năm 2007 (BL 1650), bà Hương và Đoàn KTT đều ghi rất rõ trong mục số 1: “Trong đó: Doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu” bằng số 0, nghĩa là không có doanh thu xuất khẩu, nên số HHDV bán ra 8.924.953.772 đồng này phải được hiểu là phần doanh thu bán ra nội địa phải đóng thuế GTGT theo luật định. Thế nhưng, không hiểu sao Đoàn KTT lại đi chấp nhận khoản HHDV bán ra này, cho bà Giám đốc Hương hưởng thuế suất GTGT là 0% (?!)
Căn cứ theo Luật Quản lí thuế, phần HHDV 8.924.953.772 đồng trên, không phải là HHDV xuất khẩu nên phải thuộc đối tượng chịu thuế suất GTGT là 10% (vào thời điểm ấy) mới đúng theo quy định. Vì vậy, căn cứ theo luật thì khoản này phải được điều chỉnh tính đúng trở lại là: 8.924.953.772 đồng x 10% = 892.495.377 đồng.
Như vậy, phần thuế GTGT của năm 2007 theo diễn giải nêu trên thì đã bị Đoàn KTT “tính sót” khoản thuế GTGT với số tiền thuế là: 892.495.377 đồng (sau đây gọi là “Khoản 1”)
Thứ hai, về phần thuế GTGT năm 2008 (từ 1/1/2008 - 23/5/2008)
Phần Mua vào (BL 1652) là hoàn toàn không có. Phần Bán ra (BL 1651), bà Hương kê khai rất rõ trong kì tổng doanh thu HHDV bán ra chịu thuế GTGT là 48.738.100 đồng, với thuế suất 10% => Thuế GTGT doanh thu bán ra là 4.873.810 đồng. Tuy nhiên, phần này bị Đoàn KTT điều chỉnh lại số doanh thu HHDV bán ra trong kì năm 2008 để chịu thuế GTGT thì phải là: 1.223.889.625 đồng, với thuế suất GTGT 10% => Thuế GTGT đúng ra phải nộp là: 1.223.889.625 đồng x 10% = 122.388.962 đồng.
Nhưng điều kì lạ là, không hiểu tại sao Đoàn KTT lại vẫn “chấp nhận” cho giữ nguyên con số thuế GTGT năm 2008 của doanh nghiệp phải nộp là 4.873.810 đồng? (Điều này đã được Đoàn KTT ghi rõ trong dòng kiểm tra thuế suất GTGT 10%). Hiển nhiên, đây là việc rất bất thường, khuất tất và không thể chấp nhận, vì căn cứ theo quy định của Luật Quản lí thuế thì có dấu hiệu gây thất thu ngân sách. Số tiền thuế bị thất thu là: 122.388.962 đồng - 4.873.810 đồng = 117.515.152 đồng (sau đây gọi là “Khoản 2”)
Vì vậy, theo các diễn giải trên: Thiết nghĩ trong việc chuyển bán thanh lí toàn bộ tài sản Công ty Quảng Hưng để giải thể Công ty, riêng về phần thuế GTGT của năm 2007 và năm 2008, bà Hương, Giám đốc Công ty Quảng Hưng cần phải bị truy thu thuế theo quy định của Luật Quản lí thuế với số tiền thuế phải là: (Khoản 1) + (Khoản 2)= 892.495.377đồng + 117.515.152 đồng = 1.010.010.259 đồng (Thuế GTGT năm 2007 và năm 2008).
Phần thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN):
Năm 2007 (BL 1650- 1649), có những điều cần lưu ý:
Trong mục số 1 (BL 1650), dòng chữ: “Trong đó: Doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu “thể hiện rõ bằng số 0”. Có nghĩa là trong giai đoạn bà Hương làm Giám đốc Công ty Quảng Hưng, bà Hương và Đoàn KTT đều khẳng định là không có doanh số HHDV của xuất khẩu. Trong mục số 4 (BL 1650), dòng chữ: “Chi phi sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” thể hiện bà Giám đốc Hương tự kê khai chi phí trong năm 2007 đến mức 19.968.040.456 đồng. Trong đó, phần “Chi phí giá vốn hàng hóa” (mục 4a) là: 18.242.765.136 đồng; phần “Chí phí bán hàng” (mục 4b) là 146.698.080 đồng; phần “Chi phí quản lí doanh nghiệp” (mục 4c) là: 1.578.577.240 đồng.
Theo như diễn giải ở phần đầu (về thuế GTGT năm 2007), căn cứ theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ và cơ sở chứng minh trên thực tế, bà Hương không bỏ đồng vốn nào vào trong việc mua bán chuyển nhượng Công ty Quảng Hưng. Từ ngày chiếm hữu Công ty Quảng Hưng, ngoại trừ việc chỉ tập trung vào tẩu tán tài sản của Công ty Quảng Hưng trong một thời gian ngắn, Công ty không hoạt động kinh doanh. Vì vậy, sẽ không thể có chuyện căn cứ Luật thuế, đồng ý chấp nhận số “chí phí khủng” để chỉ sử dụng vào việc “tẩu tán tài sản” nêu trên. Do đó, các mục chi phí trên sẽ là không hợp lí, không hợp lệ và thậm chí thiếu tính hợp pháp.
Diễn giải, phân tích từng chi phí:
Về mục 4a “Chi phí giá vốn hàng hóa”: Khoản phí này bà Hương kê khai là 18.242.765.136 đồng. Tuy nhiên trên thực tế đã có nhiều chứng cứ chứng minh toàn bộ tài sản của Công ty Quảng Hưng bị bà Hương dùng các thủ đoạn trái luật để cưỡng chiếm, chứ bà Hương không bỏ bất kì đồng vốn nào cả. Thực tế là vốn liếng bằng “0” đồng, tài sản là do “cưỡng đoạt” mà có, vậy luật nào chấp nhận, công nhận “chi phí giá vốn hàng hóa” của việc bán tẩu tán số “tài sản cưỡng đoạt” đó? Nghĩa là khoản chí phí 18.242.765.136 đồng này là bất hợp pháp nên phải bị loại ra, không được khấu trừ khi tính thuế TNDN theo quy định.
Về mục 4b “Chí phí bán hàng”: Khoản này bà Hương kê khai là 146.698.080 đồng. Như đã nêu trên, chi phí do việc bán tháo “tài sản chiếm đoạt”, liệu có thể được công nhận là hợp lệ?
Về mục 4c “Chí phí quản lí doanh nghiệp”: Khoản này bà Hương kê khai là 1.578.577.240 đồng. Nhưng trên thực tế, bà Hương không tiến hành hoạt động kinh doanh. (Chứng minh qua lời khai của đương sự tại Cơ quan điều tra, Viện KSND và tại Tòa án). Liệu có phát sinh “Chí phí quản lí doanh nghiệp”? Nếu chi phí đó là để phục vụ cho công việc tẩu tán “tài sản chiếm đoạt” như nêu trên sao được Luật Quản lí thuế công nhận? (Còn nữa)