Bốn thập kỉ bổ nhiệm Giáo sư, Phó giáo sư
Nghiên cứu - Trao đổi 27/10/2021 11:14
Kì cuối: Những trăn trở...
Năm 2017, cả nước có hơn 100 Hội đồng cơ sở, 28 Hội đồng ngành - liên ngành, 1 Hội đồng cấp Nhà nước (nhiệm kì 5 năm). Mỗi cấp gồm nhiều GS, PGS, có bộ phận giúp việc. Chủ tịch Hội đồng cấp Nhà nước là Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đương nhiệm. Hằng năm, sau khi có thông báo, các ứng viên tấp nập nộp hồ sơ như một trào lưu, chạy đua, không tránh khỏi tình trạng chạy chọt...
Về chất lượng khoa học và học thuật
Tiêu chuẩn công nhận GS, PGS ở nước ta quy định phải là Tiến sĩ (TS), có công trình khoa học, có trình độ ngoại ngữ, không nhất thiết phải có bài báo quốc tế (ISI/Scopus) mà vận dụng có đủ công trình khoa học, ít nhất 50% số công trình quy đổi từ các bài báo và 25% số công trình khoa học được quy đổi trong 3 năm cuối, có đủ số giờ đứng lớp, đã hướng dẫn 2 TS trở lên.
Đối với thế giới thì tiêu chuẩn bắt buộc phải có ISI/Scopus nhưng ở Việt Nam “được châm chước”, vô hình trung “bật đèn xanh” cho những công bố ít hiệu quả, hạ thấp tiêu chuẩn. Có GS được công nhận không từ bài báo khoa học mà là bài in ở Nội san (không phải là Tạp chí), hoặc bài đăng báo Nhân Dân. Sự “châm chước” dẫn đến tình trạng là các đợt phong hàm quá nửa số người không có công bố khoa học quốc tế trong khi thế giới áp dụng tiêu chí đó để đánh giá năng lực nghiên cứu. Mặt khác, Hội đồng phỏng vấn, phản biện không có GS nước ngoài tham gia...
Ảnh Internet |
Đánh giá về đợt phong GS, PGS năm 2017, có nhà khoa học nhận xét: “Số người có công trình đăng bài báo quốc tế rất thấp”. Cụ thể: 56/85 GS có ISI/Scopus với tổng số 924 bài, 29/85 GS không có bài báo quốc tế. Công nhận 1.046 PGS chỉ có 609 ứng viên (53%) có bài báo ISI/Scopus. Trong 28 ngành có PGS thì 11 ngành không có bài báo quốc tế (khoa học xã hội: 13 PGS ngành luật, 22 PGS ngôn ngữ học). Trong 93 GS, PGS thuộc lực lượng vũ trang Nhân dân chỉ có 1 người có 1 bài báo quốc tế; 3/32 PGS của ngành GD&ĐT có bài báo quốc tế cũng chỉ với 4 bài; ngành Tâm lí học chỉ có 2/17 PGS có bài báo quốc tế; ngành Triết học - Xã hội - Chính trị học có 26 PGS chỉ 2 người có bài báo quốc tế. Đợt năm 2017 tiêu chuẩn xét GS, PGS thấp hơn tiêu chuẩn xét công nhận TS. Nếu thực hiện theo chuẩn mực quốc tế thì các đợt công nhận GS, PGS hằng năm chỉ đạt 40% - 45 % tổng số ứng viên.
GS Đào Trọng Thi, cựu Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội nhận xét: “Quy trình, tiêu chuẩn công nhận hiện nay “có vấn đề”. Ông lấy làm lạ là “những điều thế giới cần thì Việt Nam không quan tâm mà chỉ quan tâm đến hình thức, thủ tục và số lượng…”.
Chức năng của GS, PGS là giảng dạy, nghiên cứu khoa học, thế nhưng…
Lẽ thường, học hàm GS, PGS dành cho những người chuyên giảng dạy, nghiên cứu khoa học, mang tính chuyên gia. Đánh giá năng lực GS, PGS trên hai tiêu chí quan trọng nhất là năng lực đào tạo (giảng dạy) và nghiên cứu. Đội ngũ này chịu trách nhiệm về hướng phát triển một ngành, một lĩnh vực tại cơ sở đang hoạt động. Trên thế giới không ở đâu quy định GS, PGS có chức năng quản lí Nhà nước, họ không công nhận những người không trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu.
Ở Việt Nam, có nhiều GS, PGS tâm huyết, giàu trí tuệ, cống hiến cho đất nước trong lĩnh vực giáo dục, y học, khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, do cơ chế xét, bổ nhiệm “vừa chặt chẽ vừa dễ dãi” qua nhiều năm phong ồ ạt dẫn đến “đồng thau lẫn lộn”, mang tính vinh danh nhiều hơn mang tính khoa học. Không ít người sắp về hưu cũng nỗ lực “phấn đấu”, nhiều công chức trong các cơ quan hành chính cũng “chạy thủ tục” để có học hàm. Nhà nước tổ chức vinh danh trọng thể nhưng ít đề cao chức năng phục vụ.
Ở các nước phát triển - đặc biệt là Mỹ - GS, PGS nhất thiết phải là người giảng dạy, nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp. Nhiều quốc gia không có HĐGSNN như nước ta. Việc công nhận học hàm do nhà trường, cơ sở nghiên cứu xét, quyết định. Nhà nước chỉ xây dựng tiêu chí “cứng”, ban hành chính sách. Danh vị GS, PGS là nhu cầu của nhà trường, của ngành, nơi họ làm việc chứ không phải GS, PGS của cả nước. Khi nghỉ hưu, nếu không tham gia giảng dạy, nghiên cứu thì không còn chức danh GS, PGS.
Ở Việt Nam, GS, PGS như một tước vị suốt đời. Khi tại chức được hưởng phụ cấp 45% lương cơ bản, phụ cấp thâm niên, được hỗ trợ kinh phí nghiên cứu, được kéo dài thời gian làm việc. Về hưu và khi qua đời vẫn được vinh danh GS, PGS. Cuộc chạy đua để có học hàm thể hiện khát vọng, ý chí của rất nhiều người nên nảy sinh không ít tiêu cực. Trước khi lập hồ sơ, nhiều ứng viên “chạy” điểm (bài báo, số giờ lên lớp, quy đổi công trình khoa học…) mà Hội đồng chỉ căn cứ kê khai chứ không thể đi xác minh. Có những ứng viên “sao kê” cả số giờ nói thời sự, giảng nghị quyết để tính điểm. Việc mua, bán điểm ở một số Hội đồng không phải là không có. Tình trạng thuê viết luận án, thuê làm công trình, thuê viết bài báo cũng là “chuyện thường ngày ở huyện”.
So với quốc tế, Việt Nam có cách làm “không giống ai”. Theo chuẩn mực GS phải viết sách, có đề tài nghiên cứu khoa học cấp quốc gia. Ở ta, nhiều người được công nhận hàng chục năm sau không có công trình khoa học, không viết sách cũng chẳng sao (?). Có vị viết ra sách nhưng không ai đọc, không áp dụng được vào cuộc sống. Tiêu chí không cần có bài báo ISI/Scopus là sự dễ dãi, công nhận nhiều GS, PGS là cán bộ, công chức giữ cương vị lãnh đạo, quản lí ở cơ quan hành chính cũng là đặc điểm “không giống ai”. Với những người này, danh vị học hàm chỉ còn là cái mác như đồ trang sức. Vì vậy, có đợt phong GS, PGS cho nhiều quan chức, trong đó có cả Bộ trưởng, Thứ trưởng, tướng lĩnh. Đó là những người hằng ngày “bơi trong biển công việc”, họp hành chóng mặt, đi nước ngoài nước trong còn đâu thời gian giảng dạy, nghiên cứu khoa học, hướng dẫn Tiến sĩ…
Sau khi có khoảng 20% - 25% số GS, PGS qua đời hoặc giải nghệ thì hiện cả nước có khoảng trên 9.000 GS, PGS; nhưng tính đến năm 2019 các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu cấp Nhà nước chỉ có 619 GS, 4.831 PGS trực tiếp hoạt động theo tiêu chí còn là làm lãnh đạo, quản lí trong khi các nhà khoa học thực thụ, sáng tạo lớn thua kém xa thế giới, khu vực.
Nước ta cũng có hơn 30.000 tiến sĩ nhưng chỉ có 38% làm công tác giảng dạy, nghiên cứu còn lại là công chức, viên chức Nhà nước, làm ở doanh nghiệp hoặc hoạt động tự do. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ số văn bằng bảo hộ cấp chứng chỉ sáng chế năm 2017 cả nước có 1.746 (cấp trong 5 năm) tăng 60% nhưng chỉ bằng 1/3 Thái Lan và Singapore, 1/11 Malaysia, 1/1.240 Hàn Quốc, 1/3.170 Trung Quốc.
Mặc dù nước ta có hơn 400 trường đại học, cao đẳng, tầng lớp trí thức đông hơn nhiều quốc gia khác (cao hơn Nhật Bản), trải qua hơn 35 năm đổi mới và 4 cuộc cải cách giáo dục nhưng cho đến nay rất hiếm các trường đại học đạt chuẩn quốc tế, nếu có xếp hạng cũng ở vị trí rất xa (ngày 2/9/2021 tổ chức Times Higher Education (THE) xếp hạng 5 cơ sở đại học của ta thì 2 trường Tôn Đức Thắng, Duy Tân được xếp gần cuối tốp 500; Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh và Đại học Bách khoa Hà Nội được xếp hạng tốp 801… đến 1.201…của thế giới).
Trong khi đó, nhiều người dân không phải là TS, GS, PGS nhưng có hàng loạt phát minh sáng chế đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội bất ngờ: Từ máy ép củi trấu, hệ thống phun tưới nước tự động, máy tẽ ngô, máy bóc lạc, máy gặt đập liên hợp đến mô hình trực thăng, tàu điện ngầm, di dời công trình xây dựng… lại do những cái đầu và trái tim người lao động chân đất, học vấn xa vời so với các vị TS, GS, PGS (!?)...
Bốn thập kỉ Bổ nhiệm Giáo sư, Phó giáo sư Nhà nước ta chủ trương phong học hàm Giáo sư, Phó giáo sư (GS, PGS) từ năm 1976. Năm 1980 Chính phủ quyết định công ... |