Bài 3: Hoàng hôn không tắt nắng
Phóng sự 29/07/2019 22:21
Phép màu kỳ diệu hạnh phúc trở về
Nửa cuối cuộc đời kém may mắn của bà Toán vợ liệt sĩ Phạm Văn Sơn, là những chuyện buồn vui theo hạnh phúc của người con gái Hà Thị Vui. Cũng như thời thiếu nữ “kiêu sa” của mẹ, hạnh phúc của Vui cũng ngắn chẳng tày gang. “Đẹp làm chi cho hồng nhạn bạc phận”, bà Toán xót xa cho con gái, khi thấy vợ chồng Vui mới sinh con chưa đầy tuổi tôi, đã mâu thuẫn, cơm chẳng lành canh chẳng ngọt. Cũng vì con rể bà là con trai gia đình giàu có, nên ở rể gia đình bà, hợp duyên không hợp cảnh. Bà chỉ biết than thân là vậy. Bà Toán không ngờ, con gái bà cũng không ngờ, chỉ vài năm sau ngày cưới, người con rể đi làm ăn buôn bán đã mắc nghiện, trở về chửi vợ, đánh convì vợ không đủ tiền cho con rể mua vài “ tép thuốc”. Rồi đồ đạc trong nhà cũng đội nón ra đi trả tiền cho con nghiện. Không thể chịu đựng được hơn, Hà Thị Vui làm đơn ly dị chồng.
Ngôi nhà ngói cấp 4 của mẹ con bà cháu bà Toán, ngày càng xuống cấp, mưa dột tứ tung, không có tiền sửa chữa. Nhớ ngày xưa trong truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” chẳng sai với gia cảnh nhà bà Toán.
Dù gia cảnh nghèo khó, nhưng Hà Thị Vui “Gái một con trông mòn con mắt”, vẫn có những người đàn ông “nhòm ngó, khát khao”. Phần thì “ lửa tình chưa dứt” với người phụ nữ tuổi đôi mươi, phần thì kinh tế khó khăn, mẹ già con nhỏ, phải nương dựa vào người đàn ông. Bấn bức cuộc đời, khiến Vui chẳng nghĩ được xa hơn, thôi thì “một liều ba bảy cùng liều” cho xong. Cuộc đời Vui lại phó thác cho người đàn ông có gia cảnh khá, hiềm nỗi vợ anh ta chỉ sinh toàn “vịt giời”, anh ta đến với Vui, mong sinh được con trai nối dõi.
Rồi Vui cũng sinh cho người đàn ông ấy một cậu con trai như ý. Cậu bé mang họ của cha, thế là Vui đã có 2 đứa con mang họ của một chồng thật đã ly hôn và một chồng hờ. Người đàn ông cũng không tệ bạc gì với mẹ con Vui, ngấm ngầm giúp đỡ Vui tiền bạc nuôi con, Vui làm vợ “hờ” không tranh giật gì chồng của người ta. Nhưng niềm vui, hạnh phúc “chồng hờ. con thật” của Vui cũng ngắn chẳng tày gang, không ngờ vợ thật của người đàn ông “cố đẻ” và đã để được “quý tử”, thế là người chồng hờ kia lộ mặt “ Sở Khanh”, bỏ rơi mẹ con Vui.
Những ngày ấy nước mắt của Vui đã cạn, nước mắt của bà Toán cũng không còn. Nhưng ông Trời, Đức Phật, cùng chẳng lấy đi tất cả của chúng sinh, duyên ấy, cũng là nghiệp ấy, của mẹ con bà Toán, cũng qua theo ngày tháng. Hai đứa cháu trời cho, một gái một trai, xinh sắn, ngoan ngoãn, như ngô, như khoai, lớn lên trong gia cảnh nghèo của bà của mẹ.
Mặc dù đã 2 con, nhưng Hà Thị Vui vẫn còn xuân sắc. Hai cuộc tình vụt đến, vụt đi, để lại cho người phụ nữ này nỗi xót xa oán hận, gắng nuôi con khôn lớn và nuôi chí ra đi làm lại cuộc đời.
Năm Hà Thị Vui 25 tuổi(2003), con gái 4 tuổi, con trai mới 1 tuổi, thì cô xa mẹ già con nhỏ, đi xuất khẩu lao động sang Đài Loan.
Từ đó hàng năm Vui có khoản tiền lớn gửi về nuôi mẹ và nuôi con.
Cuộc đời của mẹ con, bà cháu bà Toán lật sang trang mới.
Hạnh phúc mới của Hà Thị Vui lấy chồng người Đài Loan |
Cũng bởi phải tích cóp tiền gửi về nuôi mẹ và con, nên đã 5 năm từ ngày sang Đài Loan, Vui chưa một lần về nước.
Bà Toán bảo: “Bà cháu tôi cũng thông cảm. Bây giờ có điện thoại di động nên việc gọi điện, thăm non gia đình của Vui cũng thường xuyên. Ở nhà nhờ khoản tiền Vui gửi về, rồi bà cháu tôi thu nhập từ hoa quả trong vườn, nuôi lợn, nuôi bò, kinh tế cũng dư dật. Bà cháu tôi không phải vay nợ ai, sống thỏa mái, 2 cháu đều được đi học. Tôi cũng không ngờ về già mình lại có cuộc sống dư dật, không phải sống cô đơn cô quạnh mà có niềm vui có con cháu”.
Bà Toán kể: “Sang năm thứ 6 thì Vui về nước và sau đó cách 1-2 năm lại về một lần. Đến năm thứ 9 thì Vui gửi về cho bà cháu tôi khoản tiền lớn bảo mua giường mới tủ mới, năm nay Vui về nhà và có cả bạn trai cùng về. Là người mẹ thật lòng tôi cũng mừng cho Vui, nhưng không thể không lo lắng không biết bạn của Vui là người thế nào, có thông cảm và chấp nhận với hoàn cảnh của Vui không?
Đoán được suy nghĩ của tôi Vui kể về bạn trai của mình: Anh ấy tên là Vương Minh Huyền là người Đài Loan, bằng tuổi con, sinh năm 1978, gia đình lao động. anh ấy làm công nhân, gần khu công nhân của con, anh ấy chưa có gia đình.”
Chuyện tình duyên của Vui là chuyện tình cờ ông Trời run rủi mà nên vợ nên chồng. theo bà Toán kể thì lần ấy có một người đàn ông gọi vào số điện thoại của Vui. Khi Vui trả lời thì người ấy xin lỗi gọi nhầm số rồi hỏi tên Vui để trò chuyện coi là cuộc gọi nhầm số biết đau là duyên phận. Người dàn ông xưng tên là Vương Minh Huyền, nói tiếng Đài Loan. Vui đã sang Đài Loan làm việc được 10 năm nên nói thoại tiếng Đài Loan. Khi biết Vui là người Việt lao động ở gần khu công nghiệp của mình, anh Huyền chủ động hẹn Vui để làm quen. Vui đồng ý, không nghĩ rằng đó lại là duyên số cho cuộc tình mới của Vui. Gặp nhau lúc đầu là tình bạn, sau biết hoàn cảnh của Vui đã ly hôn nay sống độc thân, anh Huyền cũng chưa có vợ nên ngỏ ý cầu hôn. Lúc đầu Vui không đồng ý, sợ anh Huyền không thông cảm với hoàn cảnh mẹ già con nhỏ của Vui ở Việt Nam. Nhưng là người nước ngoài, quan niệm về hôn nhân cũng, anh Huyền thực sự thương yêu và cảm thông với hoàn cảnh của Vui, muốn bù đắp hạnh phúc mới cho Vui. Khi đã quyết tâm xây dựng hạnh phúc với anh Huyền, Vui bố trí đưa anh Huyền về Việt Nam thăm gia đình của Vui.
Tuy là Ngừời nước ngoài nhưng anh Huyền không câu nệ hoàn cảnh của Vui. Anh về nhà Vui, ăn nghỉ tại ngôi nhà ngói 3 gian cũ kỹ nơi bà cháu bà Toán đang sinh sống. Những ngày này nhà bà Toán thật Vui, mẹ con, bà cháu được quay quần bên nhau. Vui sống ở Đài Loan đã được 10 năm, ở độ tuổi 35 lại đang yêu nên trông càng xuân sắc trẻ hơn nhiều so với tuổi. Vui lại đón hạnh phúc mới, gia đình bà Toán như có phép màu đem lại hạnh phúc cho mọi người. Thấy bà Toán có con rể mới là người Đài Loan về thăm, làng xóm đến chia vui và cũng là tò mò xem chàng rể mới. Ai cũng khen anh ấy hiền lành lại đẹp trai như diễn viên, đời cô Vui hết khổ rồi, giờ thật là vui.
Bây giờ thì cô Vui đã làm dâu xứ Đài Loan, cô sinh cho chồng cô con gái xinh sắn tên là Vương Thị Dung đã 5 tuổi. Ba năm nay hai vợ chồng chị Vui năm nào cũng về quê, năm đầu thì đảo lại ngói lợp lại nhà cho bà Toán, năm sau xây sửa lại khu nhà bếp nhà vệ sinh, cũng mua sắm đủ tủ lạnh, máy giặt, ti vi giường tủ mới cho bà cháu bà Toán sử dụng đủ đầy như các gia đình khác. Năm ngoái vợ còng chị Vui về xây dựng lại hàng rào khu đồi, trồng cây mới. Năm nào vợ chồng chị cũng biếu bà Toán nào tiền nào vàng nữ trang nhẫn, dây chuyền đầy đủ.Năm nay vợ chồng chị Vui về làm thủ tục cho con gái du học sang Đài Loan.
Bây giờ đã ở tuổi 79 bên kia dốc nắng cuộc đời, ước muốn của bà Toán vợ liệt sĩ
mới là bà dược hưởng chế độ vợ liệt sĩ theo Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 9/4/2013 tại khoản 4 Điều 20 Chế độ trợ cấp tiền tuất hàng tháng quy định rõ “ Vợ hoặc chồng liệt sĩ lấy chồng, hoặc vợ khác thì được hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng bằng một lần mức chuẩn.”
Đến bây giờ bà Hà Thị Toán vẫn là vợ của liệt sĩ Phạm Văn Sơn, bà không tái giá, sao sao không được hưởng tiền tuất hàng tháng của chồng? Câu hỏi ấy có làm cho những người làm công tác LĐ-TB&XH của huyện Lạng Giang và tỉnh Bắc Giang phải trở trăn, để hy vọng và niềm tin của bà Toán người vợ liệt sĩ cuối cuộc đời như tin hoàng hôn vẫn không tắt nắng.a