Việc xét xử ở TAND TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp: Sao để “quýt” làm, “cam” chịu?
Đơn thư bạn đọc 25/10/2021 08:36
Nội dung vụ án
Trong các ngày 23/6, 30/6 và 2/7/2021, TAND TP Cao Lãnh xét xử sơ thẩm Vụ án thụ lý số 487/2017/TLST-DS ngày 11/10/2017, về tranh chấp về dân sự và hợp đồng dân sự - tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu một phần để thi hành án, quyền sở hữu tài sản, hợp đồng thuê nhà và bồi thường thiệt hại, giữa các đương sự: Nguyên đơn: Lê Thu Hồng, địa chỉ số nhà 98, tổ 20, Quốc lộ 30, phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Bị đơn: Nguyễn Thị Cúc, địa chỉ số 79, đường Mạc Đỉnh Chi, tổ 9, khóm Mỹ Thượng, phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, gồm có (trích): Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết, thường trú số 139, đường Thiên Hộ Dương, phường 4, TP Cao Lãnh, tỉnh đồng Tháp. Và ông Nguyễn Quang Trung, địa chỉ nhà số 238/17 đường Nguyễn Thái Học, tổ 18, khóm 3, phường 4, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp và Chi cục THADS TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; UBND TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; UBND phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Theo hồ sơ vụ án, tại Bản án số 173/2006/DS-ST ngày 19/12/2006, TAND TP Cao Lãnh, tuyên xử: “... Buộc ông Huỳnh Khắc Nhu và bà Nguyễn Thị Cúc liên đới trả cho bà Lê Thu Hồng số tiền vốn 130.000.000 đồng và tiền lãi là 4.151.000 đồng”.
Bà Hồng làm đơn yêu cầu thi hành án yêu cầu ông Nhu, bà Cúc liên đới trả cho bà Hồng tổng cộng số tiền vốn, tiền lãi là 134.151.000 đồng.
Ngày 26/1/2007, Chi cục THADS thị xã Cao Lãnh (nay là TP Cao Lãnh) ban hành Quyết định Thi hành án số 510/QD.THA- TĐYC về việc yêu cầu ông Nhu, bà Cúc phải liên đới trả cho bà Hồng 134.151.000 đồng. Ngày 8/5/2007, Chi cục THADS thị xã Cao Lãnh tiến hành kê biên tài sản của ông Nhu, bà Cúc là phần đất 132m2, thuộc một phần thửa 143, tờ bản đồ số 13 tọa lạc tại phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ bà Nguyễn Thị Cúc |
Ngày 23/9/2009, ông Nhu bà Cúc và con trai là ông Huỳnh Nhất Thống chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất thuộc thửa 143 (bao gồm cả phần đất 132m2 đã bị kê biên) cho bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết và ông Nguyễn Quang Trung với số tiền 500.000.000 đồng (hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 380 ngày 23/9/2009 có chứng thực của UBND phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh). Ngày 14/10/2009 bà Tuyết và ông Trung được UBND TP Cao Lãnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 936164 diện tích 261,6m2, thửa số 143, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại phường Mỹ Phú TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Giấy chứng nhận QSDĐ của bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết và ông Nguyễn Quang Trung được UBND TP Cao Lãnh cấp đúng trình tự thủ tục và quy định. |
Cho rằng: Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Nhu, bà Cúc sau khi đã có quyết định kê biên của Chi cục Thi hành án là hành vi tẩu tán tài sản. Bà Hồng yêu cầu:
1) Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thửa số 143, tờ bản đồ số 13, diện tích 261,58m2 (đo đạc thực tế 258,4m2 trong phạm vi các mốc I, K, 3,4,1) giữa hộ bà Cúc xác lập với bà Tuyết, ông Trung vào ngày 23/9/2009 tại UBND phường Mỹ Phú là giao dịch vô hiệu một phần trong phạm vi các mốc X, 3, Y, Z, T, X có 132m2 để hoàn trả lại 132m2 đất của hộ bà Cúc nhằm đảm bảo cho bà Cúc thi hành án trả nợ cho bà Hồng số tiền 134.151.000 đồng và lãi chậm thi hành án.
2) Không yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND TP Cao Lãnh đã cấp cho bà Tuyết và ông Trung ngàỵ 14/10/2009 tại thửa đất số 143, tờ bản đồ số 13, diện tích 261,6m2 (hủy đối với phần diện tích 132m2). Việc hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của UBND TP Cao Lãnh đã cấp cho bà Tuyết và ông Trung hay không thì do Tòa án quyết định.
3) Không yêu cầu đối với UBND TP Cao Lãnh, cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Tuyết và ông Trung, Chi cục THADS TP Cao Lãnh và chấp hành viên đã kê biên 132m2 đất thuộc thửa số 143, tờ bản đồ số 13, nằm trong 261,58m2 đất.
Ngày 4/5/2020, bà Hồng có đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Đến ngày 25/7/2020, bà Hồng có đơn không rút yêu cầu khởi kiện và yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Thanh Hãng, đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Cúc trình bày:
Bà Hồng khởi kiện yêu cầu hủy một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Tuyết, ông Trung cùng với gia đình ông Nhu, bà Cúc, Huỳnh Nhất Thống là đúng một Phần. Đúng là yêu cầu hủy hết hợp đồng, chứ chỉ hủy một phần là sai vì hợp đồng sang nhượng chỉ có một thửa đất một nền nhà mà hủy một phần thì chưa phù hợp. Vì hợp đồng nói trên có sự gian dối về người ký và giá cả không đúng thực tế. Hơn nữa, ông Thống và bà Tiền không có ký vào hợp đồng sang nhượng đất. Phần đất trên có căn nhà nhưng không nói gì đến căn nhà trong hợp đồng thì hợp đồng sang nhượng toàn bộ nhà và đất mà giá chỉ nhận 500.000.000 đồng. Còn giá thị trường lại cao hơn nhiều lần. Do đó, hợp đồng này phía bà Tuyết và ông Trung xuất trình với Tòa là hợp đồng gian dối nên cần phải hủy toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số chứng thực 380 ngày 23/9/2009 giữa ông Nhu, bà Cúc, ông Thống với ông Trung, bà Tuyết đối với diện tích 261,58m2, thuộc thửa 143, tờ bản đồ số 13, đất tọa lạc tại phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh để khôi phục lại như tình trạng ban đầu. Phía bà Cúc và ông Nhu (nay ông Nhu chết thì 2 con và vợ gồm: Ông Thống, bà Tiền và bà Cúc là hàng thừa kế thứ nhất) trả lại cho Ngân hàng số tiền còn nợ và trả lại tiền cho bà Tuyết, ông Trung 500 triệu đồng. Còn phần đất và nhà trên phải giao lại cho chính chủ cũ.
Bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết và bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết, đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Quang Trung trình bày:
Năm 2009, bà Tuyết và ông Trung ký hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ bà Cúc (hộ bà Cúc thời điểm 23/9/2009 gồm có bà Cúc, ông Nhu và ông Thống) thì khi nhận chuyển nhượng trên đất có nhà cấp 4 kiên cố của ông Nhu, bà Cúc.
Giá chuyển nhượng là 500 triệu đồng, diện tích 261,58m2, đất thuộc thửa 143 tờ bản đồ số 13, đất tọa lạc tại phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh nhưng chuyển nhượng giá thực tế là 1.230.000.000 đồng.
Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng được chứng thực tại UBND phường Mỹ Phú, ông Nhu và bà Cúc tiến hành giao nhà và đất cho bà Tuyết. Lúc đó, ông Thống đi thi đấu thể thao do trong đội tuyển quốc gia nên khi giao đất và nhà không có mặt ông Thống. Nếu hộ gia đình bà Cúc, Nhu không thống nhất chuyển nhượng nhà và đất cho bà Tuyết, ông Trung thì đã tranh chấp ngay từ thời điểm giao nhà cho bà Tuyết, ông Trung, chứ không kéo dài đến năm 2018, ông Thống mới khởi kiện tranh chấp yêu cầu hủy toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng. Đến nay, phía ông Thống đã rút toàn bộ yêu cầu đối với hủy toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng.
Thực tế: Sau khi chuyển nhượng 2-3 năm, bà Tuyết tháo dỡ toàn bộ căn nhà mua của Cúc Nhu để nâng nền nhà cũ lên l,2m và cất nhà tiền chế như hiện nay (Xem ảnh dưới).
Và thực tế, ngày 21/9/2011, bà Tuyết có thế chấp bằng quyền sử dụng đất (phần đất 132m2, thuộc một phần thửa 143, tờ bản đồ số 13 tọa lạc tại phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cao Lãnh, địa chỉ số 15-17 đường Nguyễn Huệ, phường 1, TP. Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, theo hồ sơ số: 29900.000247.TC.VP.
Ngày 21/9/2011, bà Tuyết có thế chấp bằng quyền sử dụng đất, thể hiện quyền sử dụng đất của bà Tuyết không bị kê biên. |
Tuy nhiên, những sự thật đã xảy ra trên đây thể hiện rõ ràng có liên quan đến quyền sở hữu tài sản (đất); đồng thời liên quan đến việc kê biên tài sản thế chấp (nếu có theo trình bày của cơ quan THADS TP Cao Lãnh), nhưng không hiểu tại sao lại không được Tòa án xem xét, kết luận trong quá trình giải quyết vụ án?!
Bà Nguyễn Thị Lan Trinh, đại diện theo ủy quyền Chi cục THADS TP Cao Lãnh trình bày:
Theo Quyết định thi hành án số 510/QĐ-THA ngày 26/1/2007, ông Nhu và bà Cúc phải liên đới trả cho bà Hồng số tiền 134.151.000 đồng và lãi chậm thi hành án. Chi cục THADS TP Cao Lãnh đã kê biên diện tích 132m2 thuộc một phần thửa 143, tờ bản đồ 13 đất tọa lạc tại phường Mỹ Phú là đúng quy định. Trong quá trình chờ xử lý tài sản theo qui định ông Nhu, bà Cúc đã tự ý chuyển nhượng toàn bộ thửa 143, tờ bản đồ 13 cho bà Tuyết và ông Trung, nhưng không sử dụng tiền bán tài sản để thi hành án trả nợ cho bà Hồng. Tại đoạn 2 khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 về việc hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự: “Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị bán, chuyển đối, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác, người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị kê biên, xử lý để thi hành án” để Chi cục THADS TP Cao Lãnh tiếp tục xử lý tài sản của ông Nhu, bà Cúc đảm bảo thi hành án cho bà Hồng.
Do ông Nhu, bà Cúc tự nguyện thi hành án, ngày 25/4/2007, chấp hành viên Phan Thanh Bình ra Quyết định cưỡng chế kê biên tài sản số 33/QĐTHA vào ngày 8/5/2007. Chấp hành viên cùng các ngành tiến hành kê biên 132m2 đất thuộc một phần của thửa 143, tờ bản đồ 13, tọa lạc tại phường Mỹ Phú, TP Cao Lãnh.
Bản án số 49/2021/DS-ST ngày 6/7/2021 về việc tranh chấp về dân sự và hợp đồng dân sự - tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu một phần để thi hành án, quyền sở hữu tài sản, hợp đồng thuê nhà, bồi thường thiệt hại của TAND TP Cao Lãnh, tuyên xử (trích):
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồng về việc yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu một phần đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 380 ngày 23/9/2009 để thi hành án. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 380 ngày 23/9/2009 giữa bà Cúc, ông Nhu, ông Thống với ông Trung và bà Tuyết bị vô hiệu một phần đối với 132m2 đất, thuộc một phần thửa 143, tờ bản đồ số 13.
Kê biên tài sản thể hiện nhiều tình tiết sai sót …
Pháp lệnh về thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004, quy định tại Điều 41. Kê biên tài sản (trích): “4. Chấp hành viên có trách nhiệm thông báo cho người nhận cầm cố, thế chấp biết về việc kê biên. 6. Khi kê biên tài sản phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người làm chứng. Người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan được thông báo về thời gian, địa điểm kê biên tài sản. Nếu người phải thi hành án cố tình vắng mặt thì Chấp hành viên vẫn tiến hành kê biên tài sản của người đó, nhưng phải ghi rõ việc này vào biên bản kê biên. 7. Đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì sau khi kê biên, Chấp hành viên phải thông báo cho cơ quan đăng ký quyền sở hữu, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm biết”.
Thế nhưng, Chấp hành viên Chi cục THADS TP Cao Lãnh đã không làm đúng các quy định trên đây, cụ thể:
Một, không thông báo cho người nhận thế chấp là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh TP Cao Lãnh (“Bản xác nhận” ngày 28/2/2017 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Chi nhánh TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp)
“Bản xác nhận” ngày 28/2/2017, của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Chi nhánh TP Cao Lãnh |
Hai, không thông báo cho cơ quan đăng ký quyền sở hữu — Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất biết (Văn bản số 35/VPĐK.QSDĐ ngày 31/1/2013 của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất của Phòng Tài nguyên và Môi trường TP Cao Lãnh). Về điều này, bà Tuyết cho biết: “Đến ngày 26/1/2010 (7 tháng sau khi tôi hoàn thành thủ tục đổi quyền sử dụng đất, sửa sai, tách thửa và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), Chi cục THADS TP Cao Lãnh mới mời tôi làm việc về đất của bà Cúc đã bị kê biên. Trong quá trình làm việc tôi có trình bày tôi hoàn toàn không biết đất này đã bị kê biên nên mới mua quyền sử dụng đất. Việc làm thủ tục chuyển nhượng được cơ quan chức năng làm thủ tục đúng theo quy định của Luật Đất đai; trong thời gian tôi làm thủ tục đổi quyền sử dụng đất, sửa sai, tách thửa và chuyển nhượng gần 4 tháng, mà không có bất cứ văn bản ngăn chặn chuyển nhượng nào từ cơ quan Thi hành án. Từ đó đến nay tôi sử dụng ổn định đất này, có làm thủ tục đóng thuế theo quy định. Chủ tịch UBND TP Cao Lãnh là Trưởng ban Thi hành án, tại sao cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi? Nếu đất kê biên và thủ tục thi hành án đúng, tại sao chuyển nhượng được?”
Văn bản số 35/VPĐK.QSDĐ ngày 31/1/2013 của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất, Phòng Tài nguyên và Môi trường TP Cao Lãnh xác nhận: Không nhận được văn bản yêu cầu ngăn chặn thực hiện các quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Cúc của các cơ quan có thẩm quyền. |
Ba, không giao tài sản kê biên cho ai tạm quản lý. Trong khi bà Cúc đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; và khi kê biên không có mặt bà Cúc chứng kiến và ký tên trong biên bản, theo quy định; Biên bản bỏ trống nội dung phần này.
Bốn, không niêm yết việc kê biên quyền sử dụng đất tại trụ sở UBND phường Mỹ Phú, nơi có đất bị kê biên, nên cán bộ phường vẫn làm thủ tục sửa sai, tách thửa bình thường.
Bà Tuyết nói rõ thêm: “Chi cục THADS TP Cao lãnh, chuyển hồ sơ qua Cảnh sát điều tra Công an TP Cao Lãnh, vì cho rằng vợ chồng ông Nhu có dấu hiệu lừa đảo. Cảnh sát điều tra có mời tất cả những người có liên quan (trong đó có tôi) lên làm việc. Tôi đã trình bày tất cả sự việc đồng thời cung cấp toàn bộ giấy tờ chứng minh tôi không hề biết đất này bị kê biên nên mới mua quyền sử dụng đất, hay nói đúng hơn nữa tôi là người ngay tình khi mua quyền sử dụng diện tích đất trên. Sau khi điều tra toàn bộ trình tự kê biên nhà đất của vợ chồng ông Nhu và bà Cúc, Cơ quan điều tra phát hiện có nhiều sai phạm trong khi thực hiện nhiệm vụ của Chi cục THADS TP Cao Lãnh, nên đã chuyển hồ sơ về giải quyết việc dân sự (Giao đất không đúng đối tượng: Trong biên bản kê biên không ghi giao đất cho ai, không có chữ ký của bà Cúc mà chỉ có một mình ông Nhu ký biên bản trong khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà Cúc đứng tên, không có văn bản ngăn chặn, ...). Ngoài ra tôi còn trình bày bà Cúc và ông Nhu còn 1.700 m2 đất lúa kêu tôi mua tiếp nhưng tôi không đồng ý, để nhắc nhở Cơ quan thi hành án số đất mà ông Nhu còn lại, nhưng Cơ quan thi hành án vẫn không ngăn chặn mà để họ tiếp tục chuyển nhượng cho người khác? Có dấu hiệu tẩu tán tài sản tại sao không xem xét, xử lí?”
Về nội dung bà Tuyết trình bày trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Đồng Tháp có văn bản, với nội dung kết luận: “Chưa đủ căn cứ xử lý hình sự đối với Huỳnh Khắc Nhu về tội Vi phạm việc kê biên tài sản. Công an TP Cao Lãnh phối hợp Chi cục THADS TP Cao Lãnh xác minh tài sản khác của ông Nhu để tiếp tục kê biên và thi hành án cho chị Hồng. Đồng thời có văn bản gửi Cục THADS tỉnh xác định việc kê biên có đúng quy trình, thủ tục hay không để xác định trách nhiệm của chấp hành viên như thế nào”.
Văn bản của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Tháp |
Chưa hết sai phạm, ngày 27/7/2015, Chi cục THADS TP Cao lãnh tiếp tục gửi Thông báo số 401/TB –CCTHA cho tôi, đòi kê biên quyền sử dụng đất mà tôi và anh ruột tôi là ông Trung đồng sở hữu. Tôi không đồng ý vì theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự: “.Áp dụng ngay biện pháp đảm bảo thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án". Nghĩa là để ngăn chặn việc tẩu tán tài sản thì tài tài sản đó phải là tài sản hợp pháp của người bị thi hành án. Trong khi ở thời điểm ngày 27/7/2015, tài sản mà chấp hành viên đòi cưỡng chế kê biên đang là tài sản hợp pháp của chúng tôi, được UBND TP Cao Lãnh cấp sổ đỏ ngày 19/10/2009; và tôi không phải là người bị thi hành án nên không được phép cưỡng chế kê biên tài sản của tôi! Tôi tiếp tục khiếu nại lên Cục THADS tỉnh và được trả lời là chuyển về Chi cục THADS TP Cao Lãnh giải quyết? Rõ ràng là cố ý đẩy đưa không giải quyết”.
Như vậy, nếu có việc kê biên tài sản và Chi cục THADS TP Cao Lãnh làm đúng quy trình thủ tục thì bà Tuyết đã không thể mua được tài sản đang thế chấp. Bà Tuyết hoàn toàn có cơ sở khi đưa ra yêu cầu: Kiểm tra lại toàn bộ trình tự, thủ tục kê biên nhà, đất của bà Cúc, ông Nhu của Chi cục Thi hành án TP Cao Lãnh; và công nhận quyền sử dụng đất cho bà Tuyết là hợp pháp.
Tờ trình của Văn phòng Đăng ký đất đai TP Cao Lãnh, khẳng định việc cấp giấy chứng nhận quy cho bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết và ông Nguyễn Quang Trung đã thực hiện đúng trình tự và thủ tục quy định. |
Được biết, đơn của bà Tuyết và ông Trung Kháng cáo toàn bộ Bản án ngày 6/7/2021 của TAND TP Cao Lãnh, đã được TAND tỉnh Đồng Tháp ra Thông báo về việc thụ lí xét xử phúc thẩm.
Rõ ràng, có nhiều dấu hiệu sai phạm từ việc kê biên tài sản của Chi cục THADS TP Cao Lãnh, nhưng chưa được xem xét, xử lý theo quy định của Luật THADS. Mặt khác, việc Tòa án đã nhận định: “Chi cục THADS TP Cao Lãnh có sai sót nhưng các đương sự không có yêu cầu xem xét trách nhiệm của Chi cục THADS TP Cao Lãnh hoặc chấp hành viên nên Hội đồng xét xử không xem xét”. Tuy nhiên, Tòa án biết có nội dung sai sót trong hồ sơ vụ án, nhưng lại không nói rõ là có những sai sót cụ thể như thế nào? Điều này là thể hiện có dấu hiệu cố ý bỏ sót những sai sót của Chi cục THADS TP Cao Lãnh trong việc kê biên. Trong khi, những dấu hiệu sai sót của Chi cục THADS TP Cao Lãnh đang thể hiện gây ra nhiều hậu quả tranh chấp pháp lí; và gây thiệt hại cho người mua tài sản thế chấp là bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết và ông Nguyễn Quang Trung.
Sao để “quýt” làm, “cam” chịu?!
Đơn của ông Nguyễn Quang Trung kháng cáo toàn bộ Bản án ngày 6/7/2021 của TAND TP Cao Lãnh |
Đơn của bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết kháng cáo toàn bộ Bản án ngày 6/7/2021 của TAND TP Cao Lãnh |
"Thông báo về việc thụ lí xét xử phúc thẩm" của TAND tỉnh Đồng Tháp. |