Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng tiền that

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để có năng suất cao

Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực được đào tạo cơ bản, có trí tuệ, tay nghề, chuyên sâu, năng lực sáng tạo, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn của thị trường lao động trong công cuộc đổi mới. P
hát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một chiến lược được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng, hội nhập quốc tế sâu rộng, ổn định, bền vững, trong diều kiện phát triển kinh tế tri thức phù hợp xu thế thời đại…

Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong “ba đột phá chiến lược”

Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra, khi nền kinh tế chủ yếu dựa trên nền tảng tri thức thì nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thể hiện vai trò quyết định, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Xu hướng thế giới hiện nay là chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực từ chỗ theo chiều rộng sang chiều sâu, cũng như kinh tế chuyển từ khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, năng lượng hoá thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo nhằm hướng tới sự bền vững trong tương lai phải đặc biệt coi trọng sự phát triển của khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo…

Đại hội Đảng lần thứ XIII đề ra mục tiêu tổng quát là đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Để phấn đấu đạt mục tiêu đó phải thực hiện mạnh mẽ ba đột phá chiến lược, trong đó có chiến lược phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trên cơ sở cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm hiệu quả và bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, Đảng và Nhà nước ta càng đặc biệt coi trọng việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.    Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát nhanh, bền vững đất nước_Ảnh: Vietnam+  Vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội  Ông cha ta thường căn dặn: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. C. Mác cho rằng, con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin Toffler nhấn mạnh vai trò của lao động trí thức: “Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”(1).  Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, khoa học - công nghệ,... có mối quan hệ nhân - quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật là không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý; còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố hữu hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác; trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.  Thực tế chứng minh rằng, một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi, nhưng kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn, biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó; với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ trí thức xứng tầm; lực lượng công nhân kỹ thuật tay nghề cao, đông đảo và có các doanh nhân tài ba.  Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao đều phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là những người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một môi trường chính trị - xã hội ổn định.  Quan điểm và thực trạng xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của đất nước trong thời kỳ đổi mới  Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới, quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng ta là đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Quan điểm này của Đảng và Nhà nước ta là sự vận dụng tổng hợp các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(2). Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn: “Đầu tiên là công việc đối với con người”(3); “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”(4)...  Tinh thần trên được phản ánh trong các bước phát triển về nhận thức, tư duy của Đảng về con người, về phát triển nguồn nhân lực từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay.  Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nêu rõ: “Kinh nghiệm vô giá mà chúng ta khái quát được trong lịch sử lâu dài và đầy khắc nghiệt của dân tộc ta là: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính bản thân dân tộc Việt Nam. Con người Việt Nam là tài sản quý báu nhất của Tổ quốc ta và chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta”(5).  Tại Đại hội XI (năm 2011), Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”(6), “là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”(7). Những quan điểm này đánh dấu sự chuyển hướng từ nhận thức có tính chất lý luận về vị trí, vai trò của nhân tố con người và nguồn nhân lực đến coi phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 3 khâu đột phá của chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2011 - 2020.  Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao, thông qua quan điểm: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu...”(8). Đại hội XII của Đảng cũng đưa ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới, đòi hỏi cần phải: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất, kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”(9).  Sau hơn 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao hơn trước, thể hiện rõ nét nhất ở năng suất lao động của toàn xã hội được nâng cao, tạo tốc độ tăng trưởng khá và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tiềm lực quốc gia. Tuy nhiên, nếu nghiêm khắc nhìn nhận thì những thành tựu đạt được nêu trên so với nguồn lực đã đầu tư, công sức bỏ ra, với những điều kiện, vận hội và thời cơ đem lại, nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam đang phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Mặc dù trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm phát huy nguồn lực con người, tuy nhiên, do tồn tại trong một thời gian dài duy trì cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, nên sự thay đổi chính sách vẫn chưa kịp thời. Hiện nay, còn không ít chính sách bất hợp lý và thiếu đồng bộ, gây cản trở, chưa tạo điều kiện phát huy tốt nguồn nhân lực.  Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế không thể thành công nếu thiếu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, với những con người có đủ “đức”, “tài”. Xét dưới góc độ nguồn nhân lực, có thể thấy, đội ngũ cán bộ khoa học của nước ta so với các nước xung quanh còn có khoảng cách lớn không dễ thu hẹp. Không ít chuyên gia đã chỉ rõ, nước ta đang vấp phải 3 trở lực lớn: chất lượng còn thấp về nguồn nhân lực(10), sự bất cập của kết cấu hạ tầng, vật chất - kỹ thuật, thể chế và năng lực quản lý nguồn nhân lực còn hẫng hụt về nhiều mặt.  Nhìn vào bức tranh tổng thể cho thấy, số lượng cán bộ khoa học đầu đàn, chuyên gia trong các lĩnh vực còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong giai đoạn mới. Những công trình khoa học có chất lượng cao, được Đảng, Nhà nước và xã hội tôn vinh, ghi nhận còn ít. Ngoài ra, nhiều công trình các cấp được triển khai và nghiệm thu nhưng tính ứng dụng - thực tiễn, chất lượng nhìn chung còn thấp.  Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ, công chức chưa tương xứng, chưa đáp ứng tốt yêu cầu công việc; tính chủ động, ý thức trách nhiệm còn thấp; khả năng quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế. Một bộ phận công chức thoái hóa, biến chất, tham nhũng, buôn lậu, nhũng nhiễu, gây phiền hà nhân dân, thiếu công tâm, khách quan khi giải quyết công việc; kỷ luật hành chính lỏng lẻo, bản lĩnh thiếu vững vàng, bộc lộ những yếu kém, bất cập. Đảng ta đánh giá: “Đội ngũ cán bộ hiện nay xét về chất lượng, số lượng, cơ cấu nhiều mặt chưa ngang tầm với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; “Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ, công chức còn yếu, một bộ phận không nhỏ thoái hóa, biến chất”... Tất cả những điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiết là phải cải cách, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.  Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất vận hội, thời cơ đang đến với đất nước. Nếu không nhanh chóng khắc phục được yếu kém này, chúng ta sẽ phải đối diện với những nguy cơ, những thách thức mới, sẽ kéo theo sự tụt hậu của đất nước. Nếu không giải quyết được bài toán nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng chất lượng nguồn nhân lực, mà hệ quả của nó là sụt giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế; khó thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”; đánh mất cơ hội tham gia thị trường lao động quốc tế.  Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong thời gian tới  Để có thể khắc phục được tình trạng: “Nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỹ năng. Năng suất lao động chậm được cải thiện, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực”; “Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức”; “chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương ứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất” như Đại hội XII của Đảng đã đánh giá, cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, toàn diện hơn trong thời gian tới.    Thí sinh Đội tuyển Việt Nam tham dự  Kỳ thi Tay nghề thế giới lần thứ 45 tổ chức tại thành phố Kazan (Cộng hòa Tatarstan, thuộc Liên bang Nga)_Ảnh: gdnn.gov.vn  Thứ nhất, để phát triển được nguồn nhân lực chất lượng cao cần chú trọng gắn kết 3 khâu: đào tạo, sử dụng, đãi ngộ. Việc đào tạo phải dựa trên xu hướng, nhu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam, đúng địa chỉ sử dụng; tiếp cận cách làm hay của thế giới.  Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy, muốn đạt được thành công trong chiến lược phát triển của mình thì phải chú trọng đến vai trò quan trọng của yếu tố con người, nhất là nhân tài, là nguồn lực tạo ra thế mạnh cạnh tranh. Do đó, việc thu hút người tài cần trở thành ưu tiên hàng đầu đối với mỗi tổ chức. Tuy vậy, các tổ chức cũng phải đối mặt với ba áp lực lớn, đó là: biến động về con người, biến động nguồn vốn và biến động trong tri thức. Điều này khiến cho việc quản lý người tài trở nên khó khăn.  Thứ hai, để tăng cường quản lý nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, cần có các phương pháp quản lý phù hợp. Trong đó cần đặc biệt chú ý đến 2 nhóm yếu tố: yếu tố nguồn nhân lực (gồm sự phù hợp giữa con người với tổ chức, lương và các khoản thu nhập, đào tạo và phát triển chức nghiệp, các cơ hội thực hiện nhiệm vụ đầy thách thức) và yếu tố tổ chức (hành vi của lãnh đạo, mối quan hệ trong tổ chức, văn hóa và các chính sách của tổ chức, môi trường làm việc).  Cần có chính sách phù hợp về cơ chế lương, thưởng đặc biệt đối với nhân tài. Cần nghiên cứu thành lập và sử dụng có hiệu quả nhất “Quỹ nhân tài” để khuyến khích nhân tài phát triển, cống hiến, sáng tạo, gắn bó, đồng hành cùng tổ chức. Về lâu dài, cần có cơ chế, chính sách về nhà ở, các phương tiện, điều kiện làm việc tốt nhất cho nhân tài công tác, cống hiến cho sự phát triển của tổ chức, của quốc gia.  Thứ ba, đối với đội ngũ trí thức, nhân tài, cần quán triệt sâu sắc quan điểm: “Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức... Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”(11); đồng thời, nâng cao ý thức trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của nhân tài vì sự nghiệp chung.  Trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đòi hỏi phải đổi mới trên nhiều phương diện, phải có một môi trường trọng công bằng, kỷ cương, đạo đức, thượng tôn pháp luật được coi làm chuẩn mực; tạo ra một môi trường văn hóa dẫn dắt sự phát triển nguồn nhân lực.  Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện sự phát triển kinh tế - xã hội chưa cao thì yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp đổi mới. Đảng ta xác định phải lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm phát triển bền vững; là điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng.  Do đó, trong chiến lược phát triển đất nước, nguồn nhân lực phải được quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực về trí tuệ, ý chí và niềm tin... Nguồn nhân lực có chất lượng cao, với số lượng và cơ cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu ý chí và khát vọng, có lý tưởng cách mạng soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay./.  ------------------------------ (1) Alvin Toffler: Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 41 (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 528 (3) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 15, tr. 616 (4) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 15, tr. 622 (5) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 93 (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 41. (7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 130 (8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 90 (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 116 (10) Báo cáo khảo sát “200 doanh nghiệp top của Việt Nam” của UNDP - Hà Nội, xuất bản tháng 9-2007 cho biết: Qua phỏng vấn, các chủ doanh nghiệp Việt Nam đều cho rằng (a) họ phải đào tạo lại hầu hết mọi người ở mọi cấp bậc - học nghề, đại học, sau đại học -  mà họ nhận vào doanh nghiệp của mình, (b) họ không tin tưởng vào hệ thống đại học và các viện nghiên cứu ở trong nước, vì chất lượng giảng dạy chưa cao; nội dung ít và lạc hậu; khả năng nghiên cứu nghèo nàn; sách vở và thiết bị đều thiếu, không đồng bộ, cũ kỹ, rất yếu về ngoại ngữ, năng lực tổ chức và quản lý thấp...  Thống kê của Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 điểm về chất lượng của lực lượng lao động, đứng thứ 11/12 nước châu Á được xếp hạng. Hiện nay, Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng lực lượng lao động lành nghề cũng như nguồn nhân lực quản lý chất lượng cao (11) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 91  Theo Tapchicongsan.vn  //www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/815949/phat-trien%2C-nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-trong-boi-canh-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu.aspx    TIN LIÊN QUAN Tăng nhu cầu mua sắm... tại nhà Từ ngày 16-3, tổ chức dạy học trên sóng truyền hình KTV cho học sinh lớp 9 và 12 Dạy học trực tuyến mùa dịch Ngày đầu tiên học sinh cấp Trung học phổ thông đi học trở lại: Nhiều giải pháp đảm bảo sức khỏe Khánh Hoà đón và cách ly 62 công dân về từ Hàn Quốc Khánh Hòa triển khai các biện pháp ngăn ngừa dịch Covid-19 Điều chỉnh khung kế hoạch thời gian năm học 2019-2020 Phát huy kết quả thực hiện cơ chế tự chủ Tập trung tạo việc làm cho người dân Sản xuất khẩu trang phòng, chống dịch Trường Cao đẳng Y tế Khánh Hòa: Điều chế dung dịch rửa tay sát khuẩn phòng, chống dịch Sở Giáo dục và Đào tạo Khánh Hòa hướng dẫn các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 Chuẩn bị chu đáo cho học sinh đi học trở lại Phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Trước đây, tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, sự thiếu nguồn vốn đầu tư là lực cản tốc độ phát triển kinh tế thì ngày nay, trở ngại chủ yếu là sự yếu kém về trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người. Cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra sự bùng nổ mạnh mẽ và nhanh chóng trong phạm vi toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tạo cơ hội cho các nước đang phát triển như nước ta lợi thế khắc phục sự tụt hậu, thông qua con đường hợp tác để có thể giải quyết các vấn đề khó khăn như thiếu hụt nguồn tài chính dựa trên quan hệ hợp tác đầu tư, vay vốn, khai thác nguồn lực khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu đột phá, là bước ngoặt quan trọng nhằm nâng cao sức mạnh nội sinh về tri thức, trí tuệ của dân tộc, thích ứng trong một thế giới năng động của sự phát triển khoa học và công nghệ như vũ bão. Chỉ có như vậy, nền kinh tế nước ta mới có sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả, bảo đảm chất lượng, bền vững. Từ đó, thoát ra khỏi nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp đang hiện hữu, sớm trở thành quốc gia công nghiệp theo hướng hiện đại.

Không có nguồn nhân lực chất lượng cao không thể có năng suất lao động cao

Năng suất lao động không chỉ phụ thuộc vào phương thức sản xuất và chính sách phù hợp mà nhân tố quyết định là con người với tư cách là chủ thể của phương thức sản xuất ấy, chính sách ấy. Nếu phương thức sản xuất lạc hậu và con người thụ động, không được đào tạo, trí tuệ non nớt, tay nghề, kĩ năng không có thì sản xuất không thể phát triển.

“Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật” sẽ thấy năng suất lao động của Việt Nam tụt hậu xa như thế nào so với các nước trong khu vực và thế giới. Theo báo cáo năm 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) thì năng suất lao động của Việt Nam tụt hậu 60 năm so với Nhật Bản, 50 năm so với Hàn Quốc, 40 năm so với Malaysia, 10 năm so với Thái Lan. Năm 2019 (trước đại dịch Covid-19) kinh tế nước ta có bước phát triển tốt. Năng suất lao động đạt bình quân 110,5 triệu đồng/lao động (tương đương 4.792 USD) nhưng chỉ bằng 7,64% so với Singapore, bằng 20% của Malaysia, bằng 38% của Thái Lan, bằng 45% của Indonesia… Năm 2021 năng suất lao động tăng 4,71%, đạt bình quân 171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD) nhưng vẫn rất thấp. So với Singapore thấp hơn 26 lần, thấp hơn Malaysia 7 lần, thấp hơn Trung Quốc 4 lần, thấp hơn Philippine 2 lần, thấp hơn Thái Lan 3 lần…

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để có năng suất cao

Muốn có năng suất cao không có con đường nào khác là phải phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát huy nhân tố con người, lấy con người làm trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và là mục tiêu của sự phát triển; đồng thời lấy giá trị văn hoá, con người là nền tảng sức mạnh nội sinh. Trong chiến lược này, vai trò của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ (quốc sách hàng đầu) tập trung phát triển nguồn nhân lực có kĩ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lí điều hành, quản trị doanh nghiệp, quản lí xã hội, trọng dụng nhân tài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, đội ngũ chuyên gia trong nước và nước ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoà, hội nhập quốc tế.

Nước ta có 224 trường đại học, 236 trường cao đẳng, hàng nghìn cơ sở đào tạo nghề (trường trung cấp, sơ cấp, trung tâm dạy nghề, cơ sở hướng nghiệp). Riêng hệ đại học, hằng năm đào tạo từ 155.000 đến 200.000 sinh viên (bình quân 185 sinh viên/100.000 dân). Là một trong 6 quốc gia có số người đi du học cao nhất thế giới, nhiều nhất là ở Australia (30.000 sinh viên), Mỹ (29.000 sinh viên), Canada (21.000 sinh viên), Anh (12.000 sinh viên), Trung Quốc (11.000 sinh viên)… Hằng năm, 80 - 85% sinh viên ra trường có việc làm, nhưng trong số đó 20-25% làm việc trái ngành, nghề đã học, phần lớn “bám trụ” trong các đô thị lớn. Nhiều sinh viên vào nghề vẫn phải đào tạo lại. Sinh viên, nghiên cứu sinh du học tốt nghiệp tỉ lệ khá cao không về nước làm việc, kể cả một số được Nhà nước cấp học bổng để đào tạo, đi nghiên cứu sinh. Nước ta cũng vào loại kỉ lục về số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ nhưng cống hiến của họ phục vụ cho tăng trưởng kinh tế không nhiều do năng lực, trách nhiệm xã hội, tâm huyết không cao, có thể còn do chính sách sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ và tư duy hẹp hòi trong công tác cán bộ…

Nước ta vào loại đông dân (xấp xỉ 100 triệu người), đứng thứ 13 song về kinh tế đứng thứ 42 trên thế giới. Lực lượng lao động chiếm 68,7% dân số (khoảng hơn 55 triệu người). Theo Tổng cục Thống kê tỉ lệ lao động qua đào tạo chiếm 64,5% nhưng số người có bằng cấp, chứng chỉ mới đạt 24,5%, còn đào tạo dưới 3 tháng, hoặc tập huấn, hướng dẫn kĩ thuật một vài tuần.

Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu nên được Nhà nước ưu tiên đầu tư 20% ngân sách (tương đương 5% GDP) nghĩa là, hằng năm ngành giáo dục được giao khoảng 15-20 tỉ USD nhưng 80% trong số đó chi thường xuyên cho giáo viên, cán bộ quản lí, còn 20% đầu tư cho phát triển. Vì thế, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp là đương nhiên. Ở các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc đầu tư cho giáo dục trên, dưới 3% GDP đã có hàng trăm tỉ USD/năm.

Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nền kinh tế tri thức cần đổi mới cả mục tiêu, chương trình và phương pháp dạy học từ bậc phổ thông đến đại học nhằm cung cấp cho người học kiến thức cơ bản làm nền tảng cho hoạt động thực tiễn, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội, sản xuất, doanh nghiệp và đời sống.

Mục tiêu phát triển kinh tế trên cơ sở phát triển công nghiệp nền tảng, thúc đẩy tự động hoá, số hoá, thông minh hoá các ngành, lĩnh vực thông qua ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ số, các công nghệ của cuộc cách mạng 4.0. Đồng thời thực hiện chuyển đổi số để đưa khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực chính để phát triển nhanh, bền vững và bao trùm. Nâng cao năng lực tự chủ của nền kinh tế, tự chủ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là vấn đề then chốt và quyết định. Đó là nguồn lực cơ bản, nổi trội của mọi nguồn lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế thành công.

Kim Quốc Hoa

Tin liên quan

Cùng chuyên mục

Sáng ngời mốc son lịch sử Nam Bộ kháng chiến

Sáng ngời mốc son lịch sử Nam Bộ kháng chiến

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2/9/1945, thực dân Pháp lại dã tâm thực hiện âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa.
Khát vọng hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Khát vọng hòa bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc ngày 2/9/1945 là tiếng nói đại diện cho nhân loại sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939-1945).
Khắc sâu lời Bác căn dặn 70 năm trước

Khắc sâu lời Bác căn dặn 70 năm trước

Cách đây 70 năm, trong cuộc gặp các cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 (Đại đoàn Quân Tiên Phong) tại Đền Giếng (thuộc Khu Di tích lịch sử Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ) vào ngày 19/9/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Nhà báo và những thách thức trong cơn lốc truyền thông mới

Nhà báo và những thách thức trong cơn lốc truyền thông mới

Thế kỉ XX chứng kiến bước phát triển sôi động của khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin, viễn thông,... đã làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.
Dòng chảy của sông cũng là dòng chảy của lịch sử nhân loại

Dòng chảy của sông cũng là dòng chảy của lịch sử nhân loại

Các nền văn minh của nhân loại đều bắt nguồn từ các dòng sông lớn. Dòng chảy của sông cũng là dòng chảy của lịch sử nhân loại…

Tin khác

Xây dựng cho thiếu nhi đời sống thái bình, tự do, sung sướng

Xây dựng cho thiếu nhi đời sống thái bình, tự do, sung sướng
Cuốn sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” (1948) của tác giả Trần Dân Tiên đã viết lại những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh chứng kiến về đời sống của thiếu nhi ở Liên Xô, khi Người đặt chân lên đất nước này.

Nhận diện để đấu tranh đẩy lùi, loại trừ thói xu nịnh

Nhận diện để đấu tranh đẩy lùi, loại trừ thói xu nịnh
Thói xu nịnh nguy hại khôn lường vì nó dẫn tới sự mất tỉnh táo, từ đó đưa ra những lựa chọn sai, quyết định không đúng. Kẻ xu nịnh và kẻ ưa nịnh đều tự hủy hoại nhân cách của mình, làm hại người tốt, thậm chí đây là một trong những căn nguyên gây ra tệ tham nhũng, tiêu cực… Nhận diện và quyết tâm đấu tranh, đẩy lùi thói xu nịnh là việc cấp bách hiện nay.

Cẩn trọng với mặt trái của việc trẻ sử dụng thiết bị điện tử

Cẩn trọng với mặt trái của việc trẻ sử dụng thiết bị điện tử
Trẻ lạm dụng thiết bị điện tử, như: Điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy tính, ti vi,… không chỉ gây hại đến sức khỏe, thị lực mà còn tác động xấu đến suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của trẻ. Việc sử dụng công nghệ không hẳn là xấu với trẻ nhỏ. Tuy nhiên, hãy xem xét tiêu cực của công nghệ đối với trẻ, từ đó kiểm soát mức độ tiếp cận của chúng...

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là ánh sáng soi đường cho phát triển giáo dục nước ta trong thời gian qua và cả trong giai đoạn sắp tới, là di sản vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, vấn đề cơ bản nhất là việc xây dựng và hoàn thiện con người thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục...

Đôi điều về chuyện làm quan ngày xưa...

Đôi điều về chuyện làm quan ngày xưa...
Ngày xưa, bố tôi được gia đình nuôi học chữ Nho từ nhỏ (Thầy dạy gia sư), hơn 10 năm mới đọc thông, viết thạo. Tốn kém bao nhiêu tiền bạc nuôi thầy và công sức bỏ ra. Bố còn được học ở trường Tây, có bằng Sơ học yếu lược.

Lòng dân quyết định thành công xây dựng, chỉnh đốn Đảng

Lòng dân quyết định thành công xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc ta và thực tiễn cách mạng Việt Nam gần một thế kỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng đã minh chứng, Nhân dân có vị trí, vai trò và sức mạnh vô cùng to lớn.

Đồng chí Võ Trung Thành - người suốt đời vì nước, vì dân

Đồng chí Võ Trung Thành - người suốt đời vì nước, vì dân
Tại lễ kỉ niệm 100 năm ngày sinh và lấy ý kiến Nhân dân đề nghị Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân cho cố Bí thư Tỉnh ủy Võ Trung Thành (14/4/1924 - 14/4/2024).

Tuyên ngôn Độc lập đưa ra cơ sở vững chắc cho nền độc lập của nước ta

Tuyên ngôn Độc lập đưa ra cơ sở vững chắc cho nền độc lập của nước ta
Trong Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra cơ sở pháp lí và cơ sở thực tiễn vững chắc cho nền độc lập của nước ta.

Học tập đạo đức của Bác Hồ trong những ngày đầu xây dựng chính quyền

Học tập đạo đức của Bác Hồ trong những ngày đầu xây dựng chính quyền
Xây dựng chính quyền đi đôi với bảo vệ chính quyền là một trong những tư tưởng trọng yếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành được thắng lợi...

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Ngọn đuốc soi đường cho chúng ta đi!

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Ngọn đuốc soi đường cho chúng ta đi!
Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa đã 55 năm (1969-2024). Cũng ngần ấy năm bản Di chúc của Bác được công bố chính thức, trở thành di sản thiêng liêng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Tấm lòng của các doanh nhân trong “Tuần lễ vàng”

Tấm lòng của các doanh nhân trong “Tuần lễ vàng”
“Tuần lễ vàng” (từ ngày 17 đến 24/9/1945) để góp vào Qũy Độc lập đã phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhất là tầng lớp doanh nhân.

Thực hiện tiên phong, gương mẫu để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên

Thực hiện tiên phong, gương mẫu để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên
Thực hiện Nghị quyết Trung ương (NQTƯ) 4, khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" có những nội dung mới. Đồng thời cũng nhận diện, chỉ rõ 27 biểu hiện của việc suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ để mỗi cán bộ, đảng viên tự soi mình sửa chữa và Nhân dân góp ý.

Giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam, mốc son chói lọi vẻ vang nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc...

Phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Tinh thần Cách mạng Tháng Tám đã khơi nguồn, bồi đắp sức mạnh cho toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta vững bước trên chặng đường mới, viết tiếp những trang sử hào hùng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cấp phó và giảm cấp phó trong hệ thống chính trị

Cấp phó và giảm cấp phó trong hệ thống chính trị
Cấp phó của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị là người giúp người đứng đầu thực hiện quản lí, điều hành một số công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ được phân công …
Xem thêm
Phiên bản di động