Phát huy lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số
Nghiên cứu - Trao đổi 11/12/2020 15:42
Theo thống kê của cơ quan chức năng, tính đến tháng 4/2019 dân số nước ta là hơn 96,2 triệu người trong đó hơn 11 triệu NCT, chiếm gần 12% dân số, (có khoảng 2 triệu người từ 80 tuổi trở lên). Dự báo, Việt Nam sẽ bước vào thời kì dân số già vào năm 2035, khi tỉ lệ này tăng lên tới 20% với khoảng 21 triệu NCT. Đến năm 2049, tỉ lệ NCT sẽ chiếm khoảng 25% dân số.
Trước những thách thức lớn của quá trình GHDS nhanh chóng phát sinh nhiều vấn đề về chăm sóc sức khỏe, hưu trí, trợ cấp, an sinh xã hội… trong khi thời gian chuẩn bị thích ứng với dân số già của Việt Nam ngắn hơn nhiều so với các nước khác, dẫn đến mức tích lũy quốc gia không đáp ứng kịp nhu cầu của xã hội. Những vấn đề này đòi hỏi cần phải xây dựng những chính sách phù hợp cho NCT để ứng phó.
Đề án “Phát huy lợi thế cơ cấu dân số vàng và thích ứng với GHDS” gồm 2 phần. Phần 1 nêu rõ những mặt được và chưa được của thực trạng phát triển lao động, việc làm và an sinh xã hội giai đoạn 2009 - 2019. Trên cơ sở đó, phần 2 chỉ rõ lợi thế của cơ cấu dân số vàng và thích ứng với GHDS ở Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 để phát triển đất nước.
Theo TS Nguyễn Hữu Dũng, Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học, Lao động và Xã hội: “Khi xây dựng đề án cần chọn vấn đề trọng tâm để vừa thích ứng được với GHDS vừa phát huy được GHDS. Trong đó, các vấn đề như việc làm, lao động, nguồn nhân lực, an sinh xã hội, bảo hiểm… cần phải đặt lên hàng đầu. Từ trước đến nay chúng ta có quan điểm coi NCT là gánh nặng, nhưng thực tế không phải vậy, NCT Việt Nam chiếm phần đông vẫn đang hăng say lao động, vì thế nên coi GHDS không phải là thách thức mà là điều kiện để phát triển trong tình hình mới”.
Còn Thạc sĩ Phạm Mạnh Thùy, Ban chiến lược phát triển nhân lực và xã hội, Viện Chiến lược và Phát triển chỉ rõ: “Tỉ lệ người Việt tham gia lao động cao, đức tính cần cù chịu khó nhưng lại chênh lệch lớn về mức thu nhập, chế độ an sinh và các chính sách. Để xây dựng đề án này cần phải có lộ trình để có chính sách thiết thực trong tương lai phù hợp với một xã hội GHDS mà vẫn phát triển. Chúng ta cần phải phát triển kinh tế để giàu trước khi già”.
Là người nhiều năm làm công tác NCT, bà Phạm Tuyết Nhung, Ban Đối ngoại Hội NCT Việt Nam đánh giá: “Đề án cần xây dựng để có tính khả thi hơn. Nội dung còn thiếu thống kê phân tích về lực lượng lao động ở các công ty nước ngoài, ngoài nước và lực lượng lao động trong lĩnh vực dịch vụ. Đồng thời, muốn tăng cường chăm sóc NCT cần có chính sách hỗ trợ để NCT được hưởng các giá trị của xã hội đem lại. Thực tế, hiện nay đa số NCT không thể tiếp cận với các ưu đãi như giảm giá vé, phí, dịch vụ, đặc biệt nhà dưỡng lão thì càng không thể vì không có tiền.
Bên cạnh đó, cần hỗ trợ tạo việc làm cho NCT; có chính sách giúp đỡ NCT nghèo khó khăn bởi họ không thể vay được vốn vì các ngân hàng sợ rủi ro. Xây dựng môi trường thân thiện với NCT cả trong gia đình và ngoài xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền để nâng cao nhận thức về NCT. Muốn làm được thì trước hết cần có các lớp tập huấn cho cán bộ xây dựng chính sách về NCT và cán bộ quản lí như vậy các chính sách cho NCT mới thiết thực. Có chế tài cụ thể để bảo vệ NCT tránh việc họ bị ngược đãi và bạo hành”.
GHDS nên được xem như là một thách thức chứ không phải gánh nặng. Muốn vậy Chính phủ cần thiết lập các chế độ phù hợp, thích ứng nhanh với cấu trúc lứa tuổi nhằm ứng phó với các vấn đề như trợ giúp xã hội cũng như phân phối nguồn lực; có chính sách tư vấn nghề nghiệp, đào tạo cho NCT có khả năng và nhu cầu tiếp tục được làm việc… có như vậy Đề án “Phát huy lợi thế cơ cấu dân số vàng và thích ứng với GHDS” mới thực sự thiết thực và đi vào cuộc sống.