Nguyễn Văn Cừ - Nhà lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam
Nghiên cứu - Trao đổi 07/07/2023 08:58
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ, sinh ngày 9/7/1912, trong một gia đình trí thức yêu nước ở xã Phù Khê, huyện (nay là TP) Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kế thừa truyền thống của gia đình, quê hương, đồng chí sớm trở thành nhà hoạt động cách mạng, lãnh đạo Nhân dân đấu tranh chống ách áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến. Năm 1927, ở tuổi 15 khi còn đang theo học ở Trường Bưởi (Hà Nội), đồng chí đã hăng hái tham gia các hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1928, đồng chí bị đuổi học, vì mật thám Pháp phát hiện đồng chí tham gia hoạt động cách mạng.
Tháng 8/1928, thực hiện chủ trương “vô sản hóa” của Kì hội Bắc Kì của Hội Việt Nam thanh niên cách mạng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được đi “vô sản hóa” ở vùng mỏ than Đông Bắc. Nhiệt huyết cách mạng, năng lực tổ chức phong trào, khả năng tuyên truyền cách mạng trong giai cấp công nhân của Nguyễn Văn Cừ sớm được thể hiện và đồng chí đã nhanh chóng trưởng thành từ phong trào của giai cấp công nhân. Chỉ sau một năm “vô sản hoá”, năm 1929, tuổi 17, Nguyễn Văn Cừ đã trở thành người trực tiếp chỉ đạo phong trào công nhân, phong trào cộng sản ở khu vực có số lượng công nhân tập trung lớn nhất nước ta. Tháng 6/1929, đồng chí trở thành đảng viên Đông Dương Cộng sản Đảng.
Tượng đài Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ tại Khu lưu niệm ở TP.Từ Sơn |
Năm 1930, đồng chí cùng với đồng chí Nguyễn Đức Cảnh tổ chức thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên ở Mạo Khê, sau đó phát triển tổ chức cơ sở đảng trên toàn vùng mỏ, thành lập Đặc khu ủy mỏ, ra tờ báo Than. Ngay từ những số đầu tiên, tờ báo Than đã động viên, cổ vũ và hướng dẫn quần chúng đứng lên đấu tranh chống chế độ áp bức bất công của thực dân Pháp,...
Ngày 15/2/1931, trên đường đi công tác, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và đưa về giam ở Nhà tù Hỏa Lò. Biết đồng chí là cán bộ Đảng phụ trách vùng mỏ, thực dân Pháp đã đưa đồng chí về Sở Mật thám Hải Phòng, dùng mọi thủ đoạn tra tấn dã man hòng moi tin tức nhưng chúng đều thất bại, sau đó đưa về nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội) giam cầm. Mặc dù không đủ bằng chứng, nhưng Hội đồng đề hình Hà Nội vẫn xử đồng chí án “phát lưu chung thân” và đày ra Côn Đảo.
Tại Nhà tù Côn Đảo (từ năm 1931 - 1936), mặc dù dưới chế độ khắc nghiệt của thực dân Pháp, nhưng đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã cùng với các đồng chí cán bộ trung kiên của Đảng biến nhà tù thành trường học cách mạng. Tại nhà tù, đồng chí đã được nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin như: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, “Hai sách lược của Đảng”, “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào công nhân”, “Nguyên lí chủ nghĩa Mác-Lênin”... thắp sáng niềm tin vào tiền đồ thắng lợi của cách mạng.
Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận Nhân dân Pháp và áp lực đấu tranh của Nhân dân ta, đồng chí Nguyễn Văn Cừ và một số đồng chí tù chính trị ở Côn Đảo được trả tự do. Sau khi được trả tự do, đồng chí trở về Hà Nội liên lạc với các đồng chí ở Trung ương thành lập ra “Ủy ban sáng kiến”, nhằm khôi phục cơ sở và phát triển phong trào cách mạng. Tháng 7/1937, đồng chí tham gia thành lập Xứ ủy Bắc Kì mở đầu cho thời kì khôi phục các cơ sở Đảng ở Bắc Kì và Trung Kì, đồng thời mở ra thời kì đấu tranh của quần chúng đòi dân sinh, dân chủ và đưa Đảng ra hoạt động công khai.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (ngày 25/8 đến 4/9/1937), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. 6 tháng sau (tháng 3/1938), đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư. Trong lịch sử Đảng ta, Nguyễn Văn Cừ là người giữ cương vị Tổng Bí thư ở độ tuổi trẻ nhất - khi mới 26 tuổi.
Năm 1939, tình hình thế giới hết sức phức tạp, bọn tờ rốt kít đẩy mạnh chống phá Đảng Cộng sản, một số cán bộ nòng cốt của Đảng ta bị bọn “AB” chỉ điểm cho bọn mật thám bắt, trong nội bộ Đảng một số cán bộ có tư tưởng “tả khuynh” hay “hữu khuynh”. Để chấn chỉnh kịp thời những tư tưởng lệch lạc sai trái trên, tháng 7/1939, với bút danh Trí Cường, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã viết và cho in cuốn “Tự chỉ trích”, chỉ đạo quần chúng cách mạng đấu tranh lột mặt nạ bọn tờ rốt kít phản động, thẳng thắn phê phán tư tưởng cải lương, thỏa hiệp dưới mọi màu sắc. Đồng thời đưa ra nguyên lí phê bình và tự phê bình trong nội bộ Đảng, nhằm củng cố và xây dựng Đảng. Trong tác phẩm “Tự chỉ trích”, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ viết: “Chúng ta đã phải chiến thắng những Xu hướng sai lầm trong hàng ngũ: xu hướng “tả khuynh”, cô độc nó muốn làm Đảng co bé, rút hẹp bởi biệt phái, cách xa quần chúng, và xu hướng thoả hiệp hữu khuynh, lung lay trước những tình hình nghiêm trọng nhãng quên hoặc che lấp sự tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, lăm le rời bỏ những nguyên tắc cách mệnh” (1).
Và đến nay, tác phẩm “Tự chỉ trích” vẫn còn nguyên giá trị, mang tính thời sự sâu sắc, nhất là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tháng 11/1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI. Trước nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ hai, Hội nghị đã đưa ra Nghị quyết nhấn mạnh: “Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, đồng thời thành lập Mặt trận dân tộc phản đế thay cho Mặt trận dân chủ”. Những quyết định đúng đắn, kịp thời của Hội nghị đã có vai trò quan trọng to lớn cho cách mạng nước ta trong thời kì đấu tranh giải phóng dân tộc (1939-1945).
Giữa lúc phong trào cách mạng của dân tộc đang bước vào cao trào mới, ngày 18/1/1940, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt. Ngày 28/8/1941, đồng chí bị quân thù xử bắn.
Với 29 tuổi, hơn 13 năm tham gia cách mạng, 7 năm bị giam cầm trong nhà tù đế quốc, hơn 2 năm làm Tổng Bí thư của Đảng, hi sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, song những cống hiến của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đối với Đảng và dân tộc Việt Nam là rất to lớn. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ là chiến sĩ cộng sản ưu tú, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, người có tầm nhìn chiến lược về lí luận xây dựng Đảng, một tấm gương cao đẹp và đạo đức cách mạng.
Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã đi vào lịch sử dân tộc; đồng chí là nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, người có tầm nhìn chiến lược về lí luận xây dựng Đảng, một tấm gương ngời sáng về lòng yêu nước và đạo đức cách mạng của người cộng sản bất tử - đã dâng hiến cuộc đời cho độc lập của Tổ quốc, tự do dân tộc, lí tưởng quang vinh của Đảng Cộng sản Việt Nam.