Công tác chăm sóc, phát huy vai trò người cao tuổi - Những kiến nghị và giải pháp
Nghiên cứu - Trao đổi 27/09/2022 09:23
Trong thời gian qua, thực hiện đường lối của Đảng về NCT, hệ thống chính sách, pháp luật về chăm sóc và phát huy vai trò NCT được Nhà nước thể chế hóa ban hành như Luật NCT, các Nghị định, Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các lĩnh vực liên quan đến NCT đã đạt được những kết quả, thành tựu.
Khám sức khỏe định kì cho NCT |
Về chăm sóc NCT: Hệ thống chính sách về chăm sóc NCT được ban hành, ngân sách Nhà nước và nguồn lực huy động từ xã hội cho công tác này ngày càng tăng; theo tổng hợp của Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, hiện các cơ quan BHXH đã chi trả chế độ hưu trí hằng tháng cho gần 2,7 triệu người với số tiền gần 14.475 tỉ đồng/tháng. Cả nước có hơn 4,94 triệu NCT hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH, trợ cấp xã hội hằng tháng. Trong đó, 2,7 triệu người hưởng lương hưu; 640.000 người hưởng trợ cấp BHXH hằng tháng; hơn 1,7 triệu người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, mức hưởng lương hưu bình quân khoảng 5,4 triệu đồng/người/tháng. Hằng năm, Hội NCT phối hợp với chính quyền tổ chức chúc thọ, mừng thọ 1,1 triệu NCT; có 3 triệu NCT được lập hồ sơ theo dõi sức khoẻ, gần 4 triệu NCT được khám sức khoẻ định kì; trên 95% NCT có thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT); cả nước có trên 77 nghìn Câu lạc bộ (CLB) của NCT ở cơ sở với nhiều loại hình văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, thu hút trên 2,5 triệu NCT tham gia. Đặc biệt đã thành lập gần 4.000 CLB Liên thế hệ tự giúp nhau (LTHTGN), thu hút trên 170 nghìn người tham gia. Mô hình CLB LTHTGN được các tổ chức, cộng đồng trong nước, ngoài nước đánh giá cao, đoạt giải Nhất trong "Sáng kiến vì một châu Á già hoá khoẻ mạnh".
Về phát huy NCT: NCT đã phát huy vai trò trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tập trung vào các hoạt động tham gia xây dựng Đảng, chính quyền; công tác hoà giải; giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo vệ môi trường, xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh; phát triển kinh tế, đời sống văn hoá ở cơ sở, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; tham gia khuyến học, khuyến tài, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện, nhân đạo; phòng, chống dịch bệnh ở địa phương...
Theo số liệu hiện nay, có trên 6,5 triệu NCT trực tiếp lao động, sản xuất, trong đó có 99.905 NCT làm chủ các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp; 357.967 NCT đạt danh hiệu làm kinh tế giỏi; NCT đóng góp hơn 10,6 triệu ngày công, hơn 3.000 tỉ đồng, hiến 24,4 triệu m2 đất để xây dựng đường giao thông, kênh mương, nhà văn hoá, trường học, cơ sở y tế,... góp phần xây dựng nông thôn mới; 64% hội viên Hội Khuyến học là NCT; 656.000 NCT tham gia công tác Đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể, thanh tra Nhân dân, hoà giải; trên 300 nghìn NCT tham gia các tổ an ninh Nhân dân phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự ở cơ sở.
Những hạn chế trong công tác chăm sóc, phát huy vai trò NCT
Tuy đã có nhiều chính sách về an sinh xã hội dành cho NCT (chính sách về BHXH, BHYT và trợ cấp xã hội…), nhưng hệ thống chính sách an sinh xã hội mới chỉ hỗ trợ cho một bộ phận NCT. Hiện cả nước mới có khoảng 39% NCT được hưởng lương hưu, BHXH, chính sách đối với người có công và trợ cấp xã hội; 61% còn lại sống dựa hoàn toàn vào kinh tế của chính mình. Trong tổng số gần 11,4 triệu NCT chỉ có 3,1 triệu người có lương hưu, hơn 8 triệu NCT còn lại không có nguồn thu nhập ổn định và hầu như phụ thuộc vào con cháu, cộng đồng và xã hội; khoảng 6 triệu người không có bất kì một khoản thu nhập nào thường xuyên và ổn định. Khi so sánh tương quan với các độ tuổi khác, NCT chịu nhiều thiệt thòi trong tiếp cận và thụ hưởng chính sách. Hệ thống chính sách chưa hiệu quả trong khuyến khích, tạo điều kiện, hỗ trợ NCT để bảo đảm thu nhập, có việc làm phù hợp, học tập, giải trí, rèn luyện sức khỏe, môi trường thân thiện...
Hệ thống cơ sở chăm sóc sức khỏe NCT bước đầu hình thành, phát triển, tuy nhiên vẫn chưa bắt kịp với tốc độ chuyển đổi nhân khẩu học. Hiện cả nước chỉ có 49/63 bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố có khoa lão, 3 cơ sở đào tạo bộ môn lão khoa, vừa điều trị bệnh, vừa điều trị phục hồi chức năng cho NCT. Ở một số địa phương còn tình trạng bác sĩ xử lí một cách “đại khái” đối với tình trạng bệnh tật của NCT hoặc sử dụng các hướng dẫn chăm sóc dành cho người trẻ tuổi. Quá trình chuyển đổi nhận thức, quan niệm từ “NCT là gánh nặng” thành “NCT là tài sản” còn chậm, chưa có giải pháp để phát huy sức mạnh của cả cộng đồng trong việc chăm sóc NCT.
Một số quy định của Luật NCT chưa thật sự đi vào cuộc sống, bộc lộ nhiều bất cập, cần được điều chỉnh, sửa đổi. Tuy Luật NCT có 1 chương quy định về phát huy vai trò của NCT trong tất cả các lĩnh vực như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo, pháp luật… nhưng chưa được Nhà nước thể chế hóa đầy đủ, toàn diện và thiếu đồng bộ, cân đối giữa 2 lĩnh vực chăm sóc và phát huy NCT (trong Luật NCT có 13 điều quy định về chăm sóc NCT, song chỉ có 2 điều quy định về phát huy vai trò NCT; trong Chương trình hành động quốc gia về NCT giai đoạn 2021-2030 có 11 nhiệm vụ, giải pháp về chăm sóc NCT, song chỉ có 1 nhiệm vụ, giải pháp về phát huy vai trò NCT; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình chăm sóc sức khoẻ NCT đến năm 2030, song chưa có Chương trình phát huy vai trò NCT...).
Vì vậy, hiện nay, phần đông NCT ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn về đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần, đặt ra yêu cầu phải có các giải pháp phù hợp về chăm sóc sức khỏe, thu nhập, mạng lưới an sinh xã hội và hỗ trợ pháp lí cho NCT. (Còn nữa)