7 ngày sinh tử trên đồi Sa Nul của ông tôi
Tâm sự 06/02/2024 11:11
Năm 1970, sau khi tốt nghiệp Trường Sư phạm cấp II, ông tôi hăm hở khoác ba lô lên tỉnh Hòa Bình công tác. Được phân về Trường cấp II Hợp Châu, huyện Kim Bôi, ông tôi đem hết nhiệt tình, trí tuệ dạy chữ Bác Hồ cho con em các dân tộc thiếu số ở đây. Nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, tháng 8/1972, ông tôi tạm biệt các em học sinh và mái trường thân yêu lên đường nhập ngũ.
Ban đầu, ông được biên chế vào Trung đoàn 15, Đặc khu Quảng Nam, rồi chuyển về Đại đội 1, Tiểu đoàn 24, Sư đoàn 5, Quân khu 7. Từ năm 1972 đến khi tiến vào giải phóng Sài Gòn, ông tham gia đánh 12 trận, dùng B40 tiêu diệt 5 xe tăng địch. Với những chiến công trên, ông được kết nạp vào Đảng.
Ông Vũ Trọng Cường. |
Trong nhiều buổi đi nói chuyện truyền thống với thanh niên, học sinh trong huyện, ông tôi kể: Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đơn vị gợi ý để ông chuyển ngành trở lại làm giáo viên, nhưng ông trả lời: “Dù làm gì, khi hoàn thành nhiệm vụ cũng rất vinh dự, nhưng tôi xin tình nguyện ở lại Quân đội”. Với quyết tâm ấy, ông được giữ lại trong quân đội và cử đi học Trường Quân chính Quân khu 7. Học xong, ông đến nhận công tác ở Đại đội 2, Tiểu doàn 5 công binh. Thời gian này, ông cùng đồng đội bảo vệ biên giới phía Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế trên đất nước bạn Campuchia. Trong đó trận Sa Nul, ở nước bạn Campuchia kéo dài 7 ngày đêm, ông không bao giờ quên được.
Trận đánh diễn ra trên một quả đồi có vị trí rất quan trọng giáp với biên giới nước ta. Công sự đào theo đường vòng cung của nửa quả đồi quay về phía Tây. Lúc đầu bộ binh ta trấn giữ nhưng lực lượng không cân sức nên chúng ta thương vong nhiều. Đồng chí Lực, Tiểu đoàn trưởng chỉ thị: “Nếu công binh không lên hỗ trợ ngay thì sẽ bị mất chốt.” Được lệnh, ông dẫn đơn vị lên tham gia trận đánh. Dọc theo giao thông hào lên đến chốt chỉ còn 11 đồng chí không bị thương; trong khi đó địch rất đông, ước tính gấp hàng trăm lần quân ta. Lên đến chốt, ông nhanh chóng phân công 3 người một hầm. Hầm ngoài cùng được trang bị một khẩu B41 và hai AK; hầm thứ 2 gồm một đại liên và 2 khẩu AK; hầm thứ 3 được trang bị 1 B40 và 2 khẩu AK. Ở mỗi hầm, ông bố trí 7 quả mìn định hướng DH 10 và 5 quả mìn Cờ-lây-mo (loại mìn gây sát thương rất mạnh, ta thu được của địch), theo hướng chính diện và hai bên phải trái của hầm, rồi lập kế hoạch tác chiến. Khi địch tấn công lên chốt, ông lệnh cho các chiến sĩ ở hầm 1 dùng AK nhả đạn; các chiến sĩ ở hầm bắn B40; còn ở hầm 2 thì đại liên bắn liên tiếp. Cứ thế, quay vòng không ngớt, hết B41 lại AK và đại liên, rồi B40.
Bằng cách đánh nghi binh này, địch không phát hiện được lực lượng của ta. Khi chúng lên sát chốt thì mìn định hướng DH10 và mìn Cơ-lây-mo tiêu diệt. Cuộc chiến không cân sức này diễn ra đến ngày thứ 7, ông bị một quả cối bắn trúng hầm và bị thương, được đưa đi cấp cứu. Vết thương chưa khỏi hẳn nhưng ông vẫn trở về đơn vị chiến đấu giữ chốt cho đến khi bộ binh lên tiếp viện. Với chiến công của trận đánh trên, ông được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Đây là trận đánh quan trọng trong đời binh nghiệp của ông; kết hợp với quá trình chiến đấu anh dũng trong kháng chiến chống Mỹ, năm 1979, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.
Trong trận mạc, ông tôi là người lính dũng cảm, luôn nhận khó khăn, nguy hiểm về mình. Với đồng đội, ông là người bạn, người anh chí cốt chí tình, thường xuyên chỉ cho đồng đội những kinh nghiệm quý báu để tránh thương vong. Trong thời bình, ông luôn nêu cao vai trò của mình trong mọi lĩnh vực.
Bây giờ, đã trở thành ông nội, ông ngoại nhưng ông vẫn phát huy tốt phẩm chất anh hùng giữa đời thường; tích cực tham gia công tác xã hội ở địa phương. Đối với Hội NCT, ông tham gia sinh hoạt đều đặn ở Chi hội NCT xóm Thượng Phú; tham mưu với Hội NCT xã về công tác xây dựng tổ chức, về chăm sóc và phát huy vai trò NCT.