Vụ án “tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất” ở quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ: Viện kháng nghị, Tòa không chấp nhận, người bị hại kêu cứu! (Tiếp
Pháp luật - Bạn đọc 07/08/2019 09:46
Nhiều dấu hiệu xét xử chưa khách quan, vi phạm tố tụng!
Theo hồ sơ, chỉ một yêu cầu trên của chị Tha, các cấp Tòa án (TAND quận Ninh Kiều; TAND TP Cần Thơ và TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh) đã bỏ qua các chứng cứ, tài liệu có liên quan vụ án, thể hiện việc có dấu hiệu thiếu khách quan, khi tuyên xử: Hủy hợp đồng do anh Hưng kí tặng cho mẹ là bà Sửu quyền sử dụng đất (QSDĐ) diện tích 267,55m2 tọa lạc tại khu vực II, phường An Khánh, quận Ninh Kiều; đề nghị UBND qụận Ninh Kiều thu hồi sổ đỏ cấp cho bà Sửu ngày 17/8/2010...
Một, vi phạm Điều 33, 40, 43 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Sửa đổi bổ sung năm 2014).
Các cấp tòa cho rằng chị Tha khai ông Ổi hứa, nếu chị Tha đi kiện vụ tranh chấp QSDĐ cho ông Ổi thắng, thì ông Ổi sẽ cho chị Tha và anh Hưng diện tích đất trên. Nhưng đây chỉ là nghe nói chứ hoàn toàn không có văn bản, giấy tờ nào của ông Ổi, bà Sửu hứa cho chị Tha và anh Hưng. Trong khi ông Ổi, bà Sửu kí hợp đồng tặng cho riêng anh Hưng, thì chị Tha cũng chứng kiến và biết rất rõ việc này. Nên có cơ sở khẳng định là QSDĐ diện tích 267,55m2 trên, là tài sản riêng của anh Hưng trong thời kì hôn nhân.
Mặt khác, ngày 29/7/2011, chị Tha có viết tờ cam kết không có tranh chấp nói trên, khẳng định QSDĐ trên là của riêng anh Hưng; chị Tha, anh Hưng đã giải quyết xong mọi tài sản không còn tranh chấp gì nữa. Điều này phù hợp quy định tại Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (Sửa đổi bổ sung năm 2014), quy định: "Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các Điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kì hôn nhân được thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Điều 33 và Khoản 1, Điều 40 của Luật này"
Quyết định kháng nghị số 157/QĐKNGĐT-VKS-DS của Viện trưởng Viện KSND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh. |
Hai, vi phạm Điều 50, 167 Luật Đất đai năm 2003 (Sửa đổi năm 2013) và Điều 689 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Tòa án cho rằng, việc chuyển nhượng phần đất và tài sản trên đất giữa bà Cúc và chị Tha, anh Hưng, bà Sửu do hợp đồng viết tay, chưa được công chứng, chứng thực và các bên chưa thực hiện được 2/3 giá trị của hợp đồng nên tranh chấp phát sinh Tòa án không xem xét trong vụ án này. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/4/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao (Phần II. Về thừa kế, tranh chấp liên quan đến QSDĐ; 2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ), tại điểm b, Khoản 2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ được xác lập từ sau ngày 15/10/1993, quy định:
b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a, Tiểu mục 2.3, mục 2 này.
b.1) Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 1/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại Điểm a.4, Tiểu mục 2.3, mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về QSDĐ được quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 1/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.
b.2) Đối với hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại Điểm a.4 và Điểm a.6 Tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được UBND cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận QSDĐ hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 1/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.
Theo tinh thần của Nghị quyết trên đây, cho thấy hợp đồng do bà Cúc và chị Tha, anh Hưng, bà Sửu giao kết vào thời điểm 2012, mặc dù chỉ viết tay, nhưng có một trong các giấy tờ quy định tại Khoản 1, 2, Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 (và sửa đổi năm 2013) thì vẫn có hiệu lực.
Mặt khác, số tiền bà Cúc đã thanh toán cho gia đình bà Sửu, anh Hưng, chị Tha được xác định trong hợp đồng chuyển nhượng ngày 26/6/2012 là đã thanh toán xong và đến thời điểm Tòa án nhận đơn khởi kiện, thì bà Cúc đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán với gia đình bà Sửu. Do đó, Tòa án cho rằng, bà Cúc chưa thanh toán được 2/3 giá trị của hợp đồng để không cho bà Cúc vào tham gia tố tụng với vai trò là người có quyền lợi liên quan trong vụ án này là hoàn toàn không có cơ sở, không đúng thực tế.
Việc Tòa án cho rằng, chuyển nhượng phần đất và tài sản trên đất giữa bà Cúc và chị Tha, anh Hưng, bà Sửu do hợp đồng viết tay, chưa được công chứng chứng thực và các bên chưa thực hiện được 2/3 giá trị của hợp đồng, là thiếu cơ sở.
Ba, vi phạm nghiêm trọng Điều 52 Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) năm 2015, quy định: "Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan".
Trong khi, từ nội dung vụ án này thể hiện bà Cúc là người nhận tài sản chuyển nhượng theo hợp đồng. Nhưng khi xem xét giải quyết về hợp đồng chuyển nhượng tài sản này, Tòa án không mời bà Cúc tham dự là vi phạm nghiêm trọng về tố tụng.
Bốn, việc áp dụng chứng cứ và sử dụng văn bản, giấy chứng nhận không có căn cứ.
UBND quận Ninh Kiều và Sở Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) TP Cần Thơ thu hồi hủy bỏ sổ đỏ của bà Sửu để cấp lại cho anh Hưng. Trong khi chỉ có sổ đỏ số BC 660180 ngày 17/8/2010 do UBND quân Ninh Kiều cấp cho bà Sửu, chứ không có sổ đỏ số CH 01895 ngày 17/8/2010 của UBND quận Ninh Kiều cấp cho bà Sửu. Nhưng Sở TN&MT TP Cần Thơ vẫn thu hồi, hủy bỏ sổ đỏ số BC 660180 ngày 17/8/2010 do UBND quận Ninh Kiều cấp cho bà Sửu để cấp cho anh Hưng (?!)
Xin nói rõ thêm: Tại văn bản thỏa thuận chuyển nhượng QSDĐ và mua bán tài sản trên đất ngày 26/6/2012, phía bên A đã đồng ý, thống nhất giao cho bà Cúc toàn quyền lập thủ tục đăng kí sang tên sổ đỏ và tài sản trên đất; và bên A là gia đình bà Sửu, chị Tha, anh Hưng... cam kết hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho bà Cúc lập thủ tục đăng kí biến động, sang tên QSDĐ theo quy định pháp luật. Văn bản thỏa thuận này có sự chứng kiến của ông Lê Thanh Phú, điều tra viên, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Cần Thơ chứng kiến và Thượng tá Nguyễn Thanh Xuân, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra kí xác nhận.
Căn cứ Vi bằng số 101/2018/VB-TPLCT ngày 1/9/2018, do Văn phòng Thừa phát lại Cần Thơ lập và ghi nhận lại ý kiến trình bày của các đồng thừa kế của bà Sửu với bà Cúc. Tại buổi làm việc các đồng thừa kế của bà Sửu cũng đã khẳng định bà Sửu đã chuyển nhượng QSDĐ nói trên cho bà Cúc và cũng thừa nhận đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán và hỗ trợ sang tên cho bà Cúc. Không tranh chấp, khiếu nại gì.
Kiến nghị ngày 3/7/2017 của anh Hưng đề nghị hủy Bản án số 47/2016/DSST ngày 20/7/2016 cùa TAND Ninh Kiều và Bản án số 78/2017/DSPT ngày 30/5/2017 của TAND TP Cần Thơ; tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Sửu với bà Cúc theo quy định; và hủy bỏ việc ủy quyền cho chị Tha đại diện kể từ ngày 3/7/2017. Văn bản kiến nghị ngày 3/7/2017 của anh Hưng, có sự xác nhận của Giám thị Trại giam Châu Bình.
Nguyện vọng của người bị hại!
Trao đổi với phóng viên, bà Nguyễn Thị Cúc bức xúc: "Tôi kiến nghị Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng Viện KSND Tối cao xem xét kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án số 47/2016/DSST ngày 20/7/2016 của TAND quận Ninh Kiều; Bản án số 78/2017/DSPT ngày 30/5/2017 của TAND TP Cần Thơ và Quyết định số 26/2019/DS-GĐT ngày 28/2/2019 của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh, để khắc phục những sai lầm nghiêm trọng của các bản án, quyết định trên. Theo quy định của Bộ luật TTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011: "Khoản 2, Điều 283 Bộ luật TTDS là: Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của tôi chưa được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật (Điểm b Khoản 1 Điều 326 Bộ luật TTDS). Qua đó, Cơ quan có thẩm quyền tại quận Ninh Kiều và TP Cần Thơ có biện pháp ngăn chặn và giữ nguyên hiện trạng, không cho ông Nguyễn Hưng Phát và bà Nguyễn Thị Thủy Tiên chuyển dịch, cầm cố, thế chấp và thay đổi hiện trạng QSDĐ 267,55m2 thửa số 65, tờ bản đồ số 15 địa chỉ: Khu vực II, phường An Khánh, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ theo sổ đỏ số CK 658873 ngày 4/12/2017, do Sở TN&MT TP Cần Thơ cấp cho ông Phát và bà Tiên, để tránh việc tẩu tán tài sản, bảo đảm cho việc thi hành án sau này".
Như vậy, có nhiều dấu hiệu thể hiện việc xét xử vụ án trên thiếu khách quan. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 157/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 13/9/2018 của Viện trưởng Viện KSND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh là có cơ sở. Để quyền lợi hợp pháp chính đáng của công dân Nguyễn Thị Cúc được bảo vệ, Báo Người cao tuổi trân trọng đề nghị Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao xem xét, giải quyết lại toàn bộ nội dung vụ án theo đúng thẩm quyền quy định của pháp luật