Về xét xử vụ án dân sự ở huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai: Kháng nghị của Viện Kiểm sát có nhiều cơ sở!
Đơn thư bạn đọc 20/08/2020 16:17
Quyết định số 91/QĐ/KNPT/DS ngày 22/5/2020 của Viện KSND huyện Long Thành. |
Quyết định Số 91/QĐ/KNPT/DS ngày 22/5/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai- Trang 5 |
Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 08/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai |
Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 08/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai |
Nội dung tranh chấp
Tại tòa, bị đơn ông Lai Văn Tỏ trình bày: Về nguồn gốc đất ông Lai Văn Tỏ, bà Võ Thị Bé đang sử dụng. Tháng 8/1993, cha và mẹ ruột của Lai Văn Tỏ là cụ Lai Văn Thôi, sinh năm 1923 có chuyển nhượng cho ông Trương Vĩnh toàn bộ phần diện tích ruộng giáp ranh đất của ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé (không nhớ diện tích ) với số tiền vàng là 117 lượng vàng SJC.
Ngày 03/3/1995, ông Trương Vĩnh chuyển nhượng lại cho vợ chồng ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé diện tích 480m2 (ngang 6m x dài 80m) liền kề (giáp ranh) thửa đất số 280, tờ bản đồ số 11, xã Long An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Giá trị chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng là 20 (hai mươi) lượng vàng SJC và ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé giao vàng tại Khu Phước Thuận, thị trấn Long Thành, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Phần đất này liền kề với phần đất ông Lai Văn Tỏ được hưởng di sản thừa kế của Cha Mẹ, đã được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất Quyền sở hữu nhà ở và Tài sản khác gắn liền với đất diện tích 467,1m2, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp cho ông Lai Văn Tỏ, số vào sổ cấp GCN: CS 07511 (Số bìa sổ đỏ CĐ 191117) ngày 23/6/2016.
Khi ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé chuyển nhượng, ông Trương Vĩnh có hứa hẹn với rằng: Khi nào ông (Trương Vĩnh) làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất ở theo quy định, vì toàn bộ diện tích đất đã chuyển nhượng của Cha (cụ Lai Văn Thôi) là đất nông nghiệp, thì sẽ làm thủ tục tách thửa chuyển nhượng chính thức cho ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé đăng ký xin cấp giấy chứng nhận phần diện tích đất là 480m2 luôn một lần. Sau khi nhận viết giấy tay xong, nhận vàng và giao đất cho ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé, ông Trương Vĩnh đi luôn cho đến ngày hôm nay. Khi ông Lưu Văn Khang tranh chấp ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé mới biết có sự chuyển nhượng gì đó giữa ông Trương Vĩnh và ông Lưu Văn Khang (nếu có).
Sau khi nhận chuyển nhượng lại phần diện tích 480m2 của ông Trương Vĩnh từ ngày 3 tháng 3 năm 1995, ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé đã cải tạo, san lấp mặt bằng từ đất ruộng thành đất ở; xây dựng Kiot để kinh doanh từ năm 1995 đến năm 2015 (20 năm); không có một tổ chức, cá nhân nào cản trở tranh chấp hay khiếu nại việc xây dựng và sử dụng phần diện tích đất mà ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé nhận chuyển nhượng của ông Trương Vĩnh; đến ngày xảy ra tranh chấp, đã được UBND xã Long An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai hòa giải vào ngày 29/5/2015, Hội đồng hòa giải khẳng định rằng phần diện tích 480m2 đất ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé đang quản lý, sử dụng không nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lưu Văn Khang (Biên bản làm việc ngày 29/5/2015 của UBND xã Long An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai).
Đến ngày 28/4/2017, sau khi có đơn yêu cầu hòa giải lần thứ hai của ông Lưu Văn Khang, Hội đồng hòa giải xã Long An cũng không ghi nhận được chứng cứ nào thể hiện phần diện tích đất của ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé thuộc quyền sử dụng đất hợp pháp của ông Lưu Văn Khang. Và Bản đồ hiện trạng thửa đất Số 5411/2017 do ông Lưu Văn Khang viện dẫn ra, để cho rằng diện tích bị lấn chiếm là 1.910,2m2 (Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh Long Thành phát hành bản vẽ theo chỉ dẫn của ông Lưu Văn Khang) ngày 17/4/2017, là không có cơ sở.
Biên bản hòa giải không thành ngày 28/4/2017 tại UBND xã Long An, huyện Long Thành |
Biên bản hòa giải không thành ngày 28/4/2017 tại UBND xã Long An, huyện Long Thành. |
Biên bản làm việc ngày 29/5/2015 tại UBND xã Long An, huyện Long Thành. |
Biên bản làm việc ngày 29/5/2015 tại UBND xã Long An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. |
Vì ngoài 480m2 đất ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé chuyển nhượng lại của ông Trương Vĩnh chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần diện tích còn lại đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất cho nhiều hộ gia đình nằm trong tổng diện tích 1.910,2m2, trong đó có thửa đất số 280, tờ bản đồ số 11, diện tích 467,1m2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN 07511 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp ngày 23/6/2016 cho ông Lai Văn Tỏ đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên.
Riêng phần diện tích đất của ông Lưu Văn Khang là thửa đất tờ bản đồ số 11, diện tích 16.221,4m2 đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp ngày 18/4/2017, do ông Lưu Văn Khang đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bìa đỏ) số CH 642442 không có phần diện tích đất 480m2 mà ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé đã chuyển nhượng của ông Trương Vĩnh và đang sử dụng. Đồng thời, ngày 8/5/2017, ông Lưu Văn Khang đã chuyển nhượng toàn bộ phần diện tích đất trên cho bà Nguyễn Thị Mộng Thu (đã điều chỉnh thay đổi cơ sở pháp lý tại trang 3 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) !
Tại tòa, nguyên đơn ông Lưu Văn Khang có yêu cầu khởi kiện sau đây: Buộc bị đơn (ông Lai Văn Tỏ), trả lại quyền sử dụng đất diện tích 914,7m2 thuộc thửa 29 tờ bản đồ số 11 xã Long An, huyện Long Thành, Đồng Nai; ông Khang yêu cầu được sở hữu tài sản của ông Tỏ, gồm: Nhà ở, nhà kho, nhà tạm, quán bán hàng... trên thửa đất số 29 được định giá là 1.058.620.000 đồng; ông Khang đồng ý thanh toán lại giá trị về tài sản cho ông Tỏ; Ông Khang yêu cầu ông Tỏ phải trả lại giá trị quyền sử dụng đất diện tích 303,5m2 (thửa 280b tờ bản đồ số 11 xã Long An) cho ông Khang, theo chứng thư thẩm định giá là 6.070.000.000 đồng.
Ông Lai Văn Tỏ không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn trên.
Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 8/5/2020 của TAND huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, xử (trích): Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lưu Văn Khang đối với ông Lai Văn Tỏ về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Ông Lai Văn Tỏ có Đơn kháng cáo toàn bộ đối với Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 8/5/2020 của TAND huyện Long Thành.
Kháng nghị của Viện Kiểm sát có nhiều cơ sở!
Quyết định số 91/QĐ/KNPT-DS ngày 22/5/2020 của Viện trưởng Viện KSND huyện Long Thành: Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2020/DS-ST ngày 8/5/2020 của TAND huyện Long Thành về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa: Nguyên đơn: ông Lưu Văn Khang, Bị đơn: Ông Lai Văn Tỏ. Bởi các cơ sở dưới đây:
Một, vi phạm về thu thập và đánh giá chứng cứ. Bản án tuyên buộc ông Tỏ, phải trả lại diện tích đất 914,7m2 thuộc thửa 29 tờ bản đồ số 11 xã Long An cho ông Khang, nhưng chưa xem xét kết luận rõ ràng về nguồn gốc đất ông Khang tranh chấp; và Tòa án cũng chưa thu thập chứng cứ để xác định giá trị đầu tư công sức, tiền bạc của ông Tỏ để tăng cao giá trị quyền sử dụng đất tại thửa 29.
Ông Khang, không có nhu cầu sử dụng đất ruộng lúa để sản xuất nông nghiệp theo quy định của Luật Đất đai năm 1993 và ông Khang chỉ nhờ ông Trương Vĩnh, trông coi đất. Vào năm 1994, ông Khang nhận chuyển nhượng diện tích 20.054m2 đất mộng lúa của bà Lê Thị Tươi, chỉ mục đích để mua đi bán lại. Thực tế từ năm 1994 cho đến năm 2015, ông Khang không có quản lý và không hề sử dụng thửa đất số 29, dẫn đến việc ông Khang không biết diện tích và vị trí thửa đất thuộc quyền sử dụng của mình. Đến năm 2015, tức là 19 năm sau ông Khang mới tranh chấp với ông Tỏ về thửa đất số 29.
Đối với bị đơn Lai Văn Tỏ, sử dụng đất thửa số 29 liên tục từ trước năm 1995 cho đến năm 2015, mới xảy ra tranh chấp và việc ông Tỏ đã đầu tư lớn về công sức, tiền của để cải tạo thửa đất số 29 trong thời gian dài, là có thật. Cụ thể như: Đổ đất san lấp mặt bằng từ đất ruộng lúa nước sang đất thổ cư, để xây nhà ở, quán kinh doanh... chính là làm gia tăng giá trị quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, bản án chưa đề cập đến công sức đầu tư cải tạo đất của bị đơn, là gây thiệt hại đến quyền lợi về kinh tế của bị đơn.
Hai, chưa có căn cứ pháp luật và vi phạm về đánh giá chứng cứ, được quy định tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự, khi xem xét về diện tích 303,5m2 đất, thuộc thửa số 280b tờ bản đồ số 11 xã Long An. Chứng cứ vụ án, xác định thửa 280b là một phần diện tích của thửa 280 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 191117 ngày 23/6/2016, cho ông Lai Văn Tỏ (Bút lục 123). Nguồn gốc thửa 280, là diện tích còn lại của thửa 74,75,76 tờ bản đồ số 01 xã Long An (theo tài liệu năm 1992), UBND huyện Long Thành đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C668877 ngày 2/1/1997 cho bà Lê Thị Tươi (Bút lục 138, 391, 403). Ngày 3/9/2015, ông Tỏ nhận thừa kế quyền sử dụng đất thửa 280 của bà Lê Thị Tươi được Phòng Công chứng số 4 chứng thực tại Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 178 (Bút lục 107 đến 111, 130,138,). Thửa đất số 280b, gia đình ông Tỏ sử dụng ổn định từ trước năm 1990, cho đến năm 2015 mới xảy ra tranh chấp đất. Vì vậy, xác định ông Tỏ là người cỏ quyền sử dụng diện tích đất 303,5m2, là hợp pháp và đúng quy định Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2013.
Bản án dân sự số 08/2020/DS-ST, cho rằng, diện tích đất 303,5m2 (thửa 2S0b) thuộc quyền sử dụng của ông Khang và tuyên ông Tỏ được quyền sử dụng đất này, nhưng buộc ông Tỏ phải thanh toán cho ông Khangg về giá trị đất số tiền hơn 6 tỉ đồng, là chưa có căn cứ pháp luật và vi phạm về đánh giá chứng cứ, được quy định tại Điều 108 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ba, vi phạm Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về xác định tư cách tố tụng: Diện tích đất 303,5m2 thuộc một phần thửa 280b, tờ bản đồ số 11, xã Long An, huyện Long Thành, UBND huyện Long Thành 2 lần cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 2 người cùng sử dụng 1 thửa đất số 280b, cụ thể: Ngày 2/4/1996, cấp giấy số C 633230 cho ông Lưu Văn Khang và ngày 2/1/1997 cấp giấy số C 668877 cho bà Lê Thị Tươi (mẹ bị đơn Lai Văn Tỏ và sau đó ông Tỏ được hưởng phần di sản thừa kế) là vi phạm Luật Đất đai năm 1993. Việc UBND huyện Long Thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai sót và nhầm lẫn này, là một phần nguyên nhân xảy ra tranh chấp dân sự, đồng thời gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất. Vì vậy, UBND huyện Long Thành có tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nhưng Tòa án không đưa UBND huyện Long Thành vào tư cách tố tụng là vi phạm quy định tại Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.”
Tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng đân sự, quy định: “... Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Trên đất tranh chấp (thửa 29, thửa 280b tờ bản đồ số 11 xã Long An), ngoài ông Lai Văn Tỏ, bà Võ Thị Bé, ông Lai Thiên Phi Long đang ở trên đất, thì còn 4 người khác cũng đang ở tại căn nhà cấp 4 trên đất, gồm: Bà Lai Thị Huyền Linh, sinh năm 1975 (con ông Tỏ); bà Lai Thị Linh Phi, sinh năm 1979 (con ông Tỏ); Lai Thị Ngọc Bích, sinh năm 2002 (cháu nội ông Tỏ); Lai Mạnh Điền, sinh năm 2004 (cháu nội ông Tỏ). Nhưng Tòa án chưa tiến hành xác minh, để đưa 4 người này tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, là rõ ràng có dấu hiệu vi phạm Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trao đổi với phóng viên, ông Lai Văn Tỏ cho rằng: “Các bản tự khai của chúng tôi khẳng định: ông Lưu Văn Khang không có tư cách khởi kiện! Yêu cầu khởi kiện của ông Khang là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Bản thân chúng tôi cũng không biết ông Lưu Văn Khang là ai. Từ tháng 8/1993, ông Trương Vĩnh chuyển nhượng đất của cha tôi cho đến ngày xảy ra tranh chấp (ngày 29/5/2015) hòa giải tại UBND xã Long An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai chúng tôi luôn phản bác toàn bộ phần diện tích đất ruộng giáp ranh với đất chúng tôi do cha tôi chuyển nhượng cho ông Trương Vĩnh. Vì những lẽ nêu trên, nay tôi kính đơn nầy đến quý cơ quan xem xét lại toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện Long Thành nêu trên theo hướng Kháng nghị của Viện KSND huyện Long Thành, tuyên hủy Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 8/5/2020 của TAND huyện Long Thành, để trả lại công bằng cho gia đình chúng tôi.”
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 07511 ngày 23/6/2016 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp cho ông Lai Văn Tỏ. |
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất , quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CS 07511 ngày 23/6/2016 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp cho ông Lai Văn Tỏ. |