Tranh chấp lô đất 39C Phùng Hưng, TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đến hồi quyết liệt: Phó Viện trưởng Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng bị tố cáo (Kì 2)
Pháp luật - Bạn đọc 22/10/2019 16:05
Bài II: Tiếp tục nội dung tố cáo
Theo quy định của pháp luật, rõ ràng vai trò của ông Quynh trong vụ mua bán lô đất ngày 1/3/1991 là người giao dịch, còn pháp nhân nhận chuyển nhượng phải là ông Thuấn. Chính vì thế, giấy biên nhận ghi “tôi (vợ chồng bà Nhân) đã nhận đủ 8 chỉ vàng của ông Thuấn và từ nay quyền sử dụng thuộc về ông Thuấn”. Ông Trần Quang Khuynh lí lẽ: “Bà Lương Thị Nhân không thể căn cứ vào việc nhận vàng từ ông Quynh, để nói lô đất đó được chuyển nhượng cho ông Quynh”. Việc ông Quynh giao vàng cho bà Nhân, ông Hùng là sự thật, nhưng vàng của ai, thì chỉ có ông Quynh biết chứ bà Nhân, ông Hùng không thể biết.
Ông Khuynh lấy làm tiếc, khi lời xác nhận của ông Hùng, bà Nhân theo yêu cầu của ông Quynh, lại được cơ quan giám sát thực thi pháp luật là Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận. Chẳng những thế, Viện còn lấy đó để làm căn cứ xác nhận tư cách chủ nhân của lô đất. Viện còn biện bạch: Ông Thuấn chỉ là người đứng tên giấy tờ giúp, ông Thuấn không có quyền quản lí sử dụng thửa đất. Ông Khuynh lí lẽ: “Pháp luật về đất đai của Việt Nam quy định: Người sử dụng đất hợp pháp phải là người có đầy đủ giấy tờ hợp pháp về đất; đồng thời quá trình sử dụng, phải đóng thuế đất đầy đủ cho Nhà nước. Ông Thuấn hội đủ hai điều kiện giấy tờ và nộp thuế, còn ông Quynh thì hoàn toàn không. Vậy tại sao Thông báo số 205 của Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng, lại cho thửa đất đó là của ông Quynh, bà Tuấn, còn ông Thuấn chỉ là người đứng tên trên giấy thì quả là một điều không tưởng!?”.
Thông báo số 205 của Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng nêu: “Ông Trần Quang Thuấn và ông Trần Quang Quynh đều thống nhất là không có việc vay mượn tiền. Vì vậy, giấy biên nhận ghi ngày 1/10/1995 (theo lời trình bày của ông Thuấn, thì thực tế được viết vào năm 2004), ông Thuấn chuyển quyền lô đất 39C cho ông Trần Quang Khuynh để gán nợ là giả tạo”.
Ông Trần Quang Khuynh phản biện: “Với một cơ quan giám sát thực thi pháp luật như Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng, mà đánh giá, nhận xét đơn giản, dễ dãi như vậy thì quả là một hiểm họa cho nền tư pháp nước nhà!?”. Ông Khuynh phân tích: “Việc viết giấy đề ngày 1/10/1995 là do ông Thuấn tự viết, tôi khẳng định chữ viết đó là của em tôi. Tuy nhiên, viết năm 1995 hay 2004 thì tôi không biết. Chỉ biết ông Quynh giao giấy biên nhận nói trên cùng các giấy tờ khác như đã kê khai cho tôi vào năm 2003 là không thể đảo ngược. Nhờ vậy, ngày 20/3/2004, tôi mới có các loại giấy tờ đó mang đến UBND phường Phước Long xin tách thuế, đăng kí kê khai thuế hộ mới. Phường đã chấp nhận, tôi có bản kê khai thuế mang mã số 60969 và được ghi vào sổ bộ thuế của Chi cục Thuế TP Nha Trang, theo số thứ tự 184 như đang có trong hồ sơ. Từ đó khẳng định: Năm 2004 không có chuyện ông Thuấn viết giấy đề ngày 1/10/1995 để giả tạo hay giả cách như quý Viện và quý Tòa Cấp cao tại Đà Nẵng nói. Tất cả các loại giấy đó tôi đang giữ, còn ông Quynh thì chẳng có gì, nên không ai có thể nói khác!”.
Ông Khuynh tiếp tục: “Còn việc nợ nần giữa anh em tôi, quý Viện không thể biết được. Tôi là người có tiền để mua đất là quá rõ ràng. Ông Quynh, ông Thuấn và ai đó nữa trong gia đình tôi có tiền để mua đất hay không, chỉ có họ biết. Ông Phan Vũ Hoàng không thể nói theo ông Quynh và ông Thuấn, để suy diễn. Ông Quynh và ông Thuấn thống nhất không có chuyện vay mượn tiền… Giấy biên nhận ngày 1/10/1995 là giả tạo”. Hai ông có vay mượn tiền tôi hay không, thì ông Quynh và ông Thuấn hiểu hơn ai hết. Chính ông Quynh lập bản thanh quyết toán công nợ giữa ông Quynh với tôi (Khuynh) và ông Thuấn ghi: Khuynh thư về cho Thuấn mượn 1.000 USD và 38 triệu đồng tiền mặt nuôi tôm, hiện bản thanh toán đó tôi (Khuynh) đang giữ; còn việc họ “thống nhất với nhau” không có chuyện vay mượn thì đó là việc của họ. Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng không thể lấy đó làm căn cứ. Riêng việc giả tạo, giả cách như thế nào đó, thì do ông Quynh và Thuấn tạo nên, chứ không ai khác. Họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật” - ông Khuynh khẳng định.
Thông báo số 205/TB-VKS-DS ngày 25/6/2019, trả lời ông Trần Quang Khuynh và Phản biện ngày 2/7/2019 của ông Khuynh đối với Thông báo này |
Thông báo số 205 của Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng “ông Khuynh (tôi) không chứng minh được ông Quynh, bà Tuấn nhận chuyển nhượng thửa đất 39C đường 12, nay là đường Phùng Hưng, bằng tiền lao động xuất khẩu của ông Khuynh”. Ông Khuynh phản biện: “Việc tôi (Khuynh) có tiền gửi về cho anh trai Trần Quang Quynh ở Học viện Hải quân để mua đất hay không, trong hồ sơ đã được thể hiện. Cụ thể lô hàng đầu tiên tôi (Khuynh) gửi về theo địa chỉ Trần Quang Quynh, HT 6 KE 941 Học viện Hải quân là quá rõ ràng. Mặt khác, tôi (Khuynh) không chỉ gửi một lần mà nhiều lần với số lượng lớn. Ông Quynh đã mua cho tôi (Khuynh) không phải một lô mà 5 lô đất. Lô đất số 39C Phùng Hưng là lô đầu tiên, nhưng không mang tên ông Quynh, vì như đã nói, thời điểm đó ông Quynh được Học viện Hải quân chuẩn bị phân nhà và thực tế ông Quynh được phân căn nhà hiện nay ông đang ở. Bốn lô còn lại đều đứng tên ông Quynh, có lô đã được làm sổ đỏ, mang tên vợ chồng ông Quynh, bà Tuấn. Vì thế, tôi (Khuynh) phải hết sức vất vả, phải kiện cáo ra đến tận Quân ủy Trung ương mới lấy lại được”.
Điểm cuối cùng trong Thông báo số 205 mà Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng đưa ra là: “Bản án dân sự phúc thẩm số 14/2016/DS-PT ngày 6/4/2016 của TAND tỉnh Khánh Hòa, công nhận ông Trần Quang Quynh và bà Lê Thị Thanh Tuấn được quyền sử dụng lô đất 39C Phùng Hưng, Nha Trang là có cơ sở, đúng pháp luật. Do đó, Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng không thể Kháng nghị”. Ông Trần Quang Khuynh phản biện: “Để biết Bản án nói trên có căn cứ, đúng pháp luật hay không, tôi (Khuynh) đề nghị quý Viện trả lời mấy câu hỏi sau đây:
Một là: Quyết định cấp đất của bà Lương Thị Nhân được Học viện Hải quân SAO Y trên bản SAO Y, theo yêu cầu của TAND TP Nha Trang, thì Quyết định đó đúng pháp luật ở chỗ nào? Luật nào cho phép? HĐXX Phúc thẩm TAND tỉnh Khánh Hòa sử dụng bản Y SAO đó làm căn cứ, tạo nên pháp nhân thứ 2 để tuyên bản án nói trên thì quy định nào của pháp luật cho phép?
Hai là: Tờ khai thuế mang tên Trần Quang Quynh được cho là lập ngày 22/2/2005, nhưng tại Tòa phúc thẩm, ông Trần Quang Quynh khai báo: “Tờ khai đó tôi (Quynh) không khai, không kí và không biết”. Thực tế chữ kí và chữ viết trong tờ khai không phải của ông Quynh. Tôi “Khuynh” khẳng định 100%. HĐXX phúc thẩm TAND tỉnh Khánh Hòa sử dụng tờ khai thuế giả mạo đó làm căn cứ để xét xử. Vậy Bản án số 14/2016/PT-DS có căn cứ và đúng pháp luật ở chỗ nào?
Ba là: Một lô đất mà bà Lương Thị Nhân và ông Lê Anh Hùng, năm 1991 thì bán cho ông Trần Quang Thuấn, năm 2012 (21 năm sau) lại khẳng định: “Lô đất đã bán cho ông Thuấn nay thuộc quyền quản lí, sử dụng của ông Trần Quang Quynh, bà Lê Thị Thanh Tuấn”. Hành vi này của ông Hùng, bà Nhân, đã vi phạm pháp luật về hình sự chưa?
Bốn là: Tên và chữ kí Trần Quang Quynh tại các hợp đồng mắc điện, nước, do người khác kí, nhưng Tòa phúc thẩm lại cho là ký thay, nghĩa là ông Quynh kí. Như vậy, liệu Tòa phúc thẩm có sự nhầm lẫn giữa kí thay và chữ kí giả hay không? Nếu chữ kí giả thì Bản án Phúc thẩm số 14/2016/PT-DS của TAND tỉnh Khánh Hòa đúng luật pháp ở chỗ nào thưa quý Viện?”.
Từ những câu hỏi đặt ra nói trên, ông Trần Quang Khuynh khẳng định: “Hiến pháp và pháp luật nước CHXHCN Việt Nam không có điều luật nào quy định, hoặc cho phép TAND các cấp xử cho kẻ giả cách, giả mạo thắng kiện. Đó là điều chắc chắn. Bởi vậy, việc ông Phan Vũ Hoàng, Phó Viện trưởng Viện KSND Cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng “Bản án 14/2016/PT-DS của TAND tỉnh Khánh Hòa là có căn cứ, đúng luật pháp”, là hoàn toàn biện bạch, bao che.