Người cao tuổi có “đơn kêu cứu khẩn cấp”, vì nhiều dấu hiệu xét xử thiếu khách quan
Pháp luật - Bạn đọc 01/11/2023 16:05
Nội dung vụ án
Nguyên đơn ông Ngô Quang Viễn trình bày: Ông và bà Bùi Thị Ngọc Lan chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1986, không đăng kí kết hôn; có tài sản chung là 1.180m2 đất, thửa số 41a, tờ bản đồ số 15, khu phố Khánh Sơn 1, thị trấn Khánh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Năm 2004, ông và bà Lan thành lập Doanh nghiệp tư nhân xăng dầu Khánh Sơn (Doanh nghiệp Khánh Sơn).Quá trình chung sống, ông bà không có con chung nên đã nuôi và coi như con ruột 4 cháu con của anh trai bà Lan từ khi các cháu còn rất nhỏ, trong đó có ông Thức. Năm 2013, bà Lan mắc bệnh nan y, ông và bà Lan thống nhất chuyển nhượng Doanh nghiệp tư nhân xăng dầu Khánh Sơn và QSDĐ trên cho ông Thức (cháu bà Lan) với điều kiện ông Thức cùng kinh doanh và nuôi dưỡng, để ông Viễn ở căn nhà cấp bốn phía sau cho đến khi ông Viễn chết. Giá trị tài sản hai bên thỏa thuận là 6 tỉ đồng nhưng trong hợp đồng công chứng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất chỉ ghi giá trị chuyển nhượng là 300 triệu đồng nhằm để giảm tiền thuế. Sau khi bà Lan chết, ông Thức không thanh toán tiền nhận chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất. Hơn nữa, chữ kí trên Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất; và Hợp đồng tặng cho doanh nghiệp tư nhân không phải chữ kí của bà Lan, ông Thức đã kí giả chữ kí của bà Lan để lừa ông kí vào các hợp đồng. Do đó, ông khởi kiện yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ lập ngày 20/3/2013 và Giấy tặng cho doanh nghiệp lập ngày 7/3/2013 giữa ông và bà Lan với ông Thức; hủy GCNQSDĐ số: BN 986941 do UBND huyện Ninh Hải cấp cho ông Thức.
Trạm xăng dầu Khánh Hải |
Bị đơn ông Thức trình bày: Ông là cháu ruột của bà Lan. Đầu năm 2013, bà Lan và ông Viễn làm thủ tục chuyển nhượng tài sản là nhà, đất và Doanh nghiệp xăng dầu Khánh Sơn cho ông. Ông Viễn cũng kí tên vào các Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tải sản gắn liền đất, Hợp đồng tặng cho doanh nghiệp tư nhân. Ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Viễn.
Bản án số: 23/2022/DS-ST ngày 29/9/2022 của TAND tỉnh Ninh Thuận, xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Viễn về yêu cầu chia tài sản thuộc sở hữu chung giữa ông Viễn và bà Lan là thửa đất số 41a, tờ bản đồ số 15, thị trấn Khánh Hải, huyện Ninh Hải cùng tài sản gắn liền bao gồm: 1 căn nhà cấp 4: 125m2; 1 nhà điều hành: 55m2; 1 nhà chứa xăng dầu: 35m2; 1 cây xăng gồm 4 trụ bơm xăng;
Buộc ông Thức trả cho ông Viễn 3.925.752.500 đồng; ông Thức đuợc quyền sở hữu 1/2 giá trị các tài sản: QSDĐ thửa số 41a, tờ bản đồ số 15, thị trấn Khánh Hải, cùng toàn bộ tài sản gắn liền trên đất bao gồm: 1 nhà cấp 4 có: 125m2, 1 cây xăng với 4 trụ bơm xăng, 1 nhà điều hành kinh doanh xăng dầu: 55m2, 1 nhà kho xăng dầu: 35m2, 1 mái che cây xăng: 110m2, 4 máy bơm xăng dầu, 2 bồn chứa xăng dầu, sân bê tông: 300m2;
Tạm giao cho ông Thức quản lí 1/2 tài sản là QSDĐ thửa số 41a, tờ bản đồ số 15, thị trấn Khánh Hải cùng toàn bộ tài sản gắn liền trên đất bao gồm 1 nhà cấp 4: 125m2, 1 cây xăng với 4 trụ bom xăng, 1 nhà điều hành kinh doanh xăng dầu: 55m2, 1 nhà kho xăng dầu: 35m2, 1 mái che cây xăng: 110m2, 4 máy bơm xăng dầu, 2 bồn chứa xăng dầu, sân bê tông: 300m2 là di sản thừa kế của bà Lan. Toàn bộ các tài sản trên ông Thức đang trực tiếp quản lí.
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Viễn: Về yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ lập ngày 20/3/2013, đối với thửa đất số 41 a, tờ bản đồ địa chính số 15, thị trấn Khánh Hải; về yêu cầu hủy GCNQSDĐ số: BN 986941 ngày 16/6/2013 do UBND huyện Ninh Hải cấp cho ông Thức đối với thửa đất số 41a, tờ bản đồ địa chính số 15, thị trấn Khánh Hải; về yêu cầu hủy giấy tặng cho doanh nghiệp ngày 7/3/2013 giữa ông Viễn, bà Lan với ông Thức; và về yêu cầu hủy giấy chứng nhận doanh nghiệp Công ty TNHH dịch vụ xăng dầu Khánh Hải do ông Thức làm Giám đốc.
Bản án số: 673/2023/DS-PT ngày 22/9/2023 của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh, xử:Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Viễn về yêu cầu hủy: Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ lập ngày 20/3/2013; GCNQSDĐ số: BN 986941 ngày 16/6/2013 do UBND huyện Ninh Hải cấp tên ông Thức đối với thửa đất số 41 a, tờ bản đồ địa chính số 15, thị trấn Khánh Hải; giấy tặng cho doanh nghiệp ngày 7/3/2013 giữa ông Viễn, bà Lan với ông Thức và Giấy chứng nhận doanh nghiệp Công ty TNHH dịch vụ xăng dầu Khánh Hải do ông Thức làm Giám đốc.
Chưa làm rõ bất thường về chữ kí và dấu lăn tay
Bản án phúc thẩm có nhận định: “Tại Kết luận giám định (KLGĐ) số 102/KLGĐ ngày 12/12/2014 của Phòng Kĩ thuật Hình sự Công an tỉnh Ninh Thuận và KLGĐ số 662/C54B ngày 27/1/2016 của Phân viện Khoa học hình sự tại TP Hồ Chí Minh kết luận: “Dấu vân tay của bà Lan trên mẫu so sánh và dấu vân tay của bà Lan trên hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và các tài sản khác gắn liền với đất đề ngày 20/3/2013 là cùng một người in ra”… Như vậy, việc nguyên đơn ông Viễn cho rằng bà Lan không kí và lăn tay vào hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng tặng cho là không đúng…”. Tuy nhiên, nhận định này có dấu hiệu không khách quan, cụ thể:
Bản án sơ thẩm. |
Một, tại KLGĐ số: 102/KLGĐ ngày 12/12/2014, giám định chữ kí của bà Lan trong hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và các tài sản khác gắn liền với đất, với tài liệu mẫu so sánh mặc dù có khẳng định là do cùng một người kí ra, nhưng KLGĐ này đã bị phủ định bằng KLGĐ số 1023/C54B ngày 8/5/2017.
KLGĐ số: 1023 trên thể hiện tại phần 5. Kết luận: “Chữ kí mang tên Bùi Thị Ngọc Lan trên các tài liệu: “Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất” đề ngày 20/3/2013 (kí hiệu A1); “Giấy tặng cho doanh nghiệp tư nhân” đề ngày 7/3/2013 (Ký hiệu A2); “Giấy đề nghị chỉnh sửa, bổ sung thông tin khách hàng”, đề ngày 6/3/2013 (Ký hiệu A3) so với chữ kí đứng tên Bùi Thị Ngọc Lan trên các tài liệu mẫu so sánh kí hiệu M1 đến M5 không phải do cùng một người kí ra”.
Riêng về dấu vân tay, tại KLGĐ số 102 trên, khẳng định: “Điểm chỉ vân tay màu đỏ dưới mục “điểm chỉ ngón trỏ trái và trỏ phải của bà Lan trên tài liệu cần giám định kí hiệu A1, A2, A3 bị nhòe mực, ít đặc điểm riêng, đặc trưng nên không đủ yếu tố giám định”.
Từ đây có thể thấy, văn bản KLGĐ này trái ngược hẳn với phần nhận định của Bản án phúc thẩm.
Hai, theo Kết luận giám định (KLGĐ) số 662/C54B ngày 27/1/2016, tại phần 5, kết luận:
“5.1. Dấu vân tay màu đỏ bên phải dưới mục “điểm chỉ ngón trỏ trái, trỏ phải của bà Lan” trên tài liệu cần giám định (kí hiệu A1) với dấu vân tay ngón trỏ của bà Lan trên các tài liệu mẫu so sánh (kí hiệu M1, m2, M3) là do vân tay của cùng một người in ra.
5.4. Dấu vân tay màu đỏ bên trái dưới mục “điểm chỉ ngón trỏ trái, trỏ phải của bà Lan” trên tài liệu cần giám định (kí hiệu A1) với dấu vân tay màu đỏ bên phải dưới mục “điểm chỉ ngón trỏ trái, trỏ phải của bà Lan” trên tài liệu cần giám định (kí hiệu A2) bị mờ nhòe, không thể hiện được dạng chung và các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định”.
Có thể thấy, các nội dung KLGĐ thể hiện hoàn toàn không giống như phần nhận định của Bản án phúc thẩm; chưa kể vào ngày 20/3/2013, bà Lan đang ở giai đoạn cuối của bệnh ung thư, chỉ 24 ngày sau bà Lan chết. Thời điểm này, bà Lan lúc mê lúc tỉnh, năng lực hành vi bị hạn chế, theo lời khai của ông Thức thì chỉ có một nhân viên Văn phòng Công chứng Thanh Hằng vào gặp bà Lan tại thời điểm lập Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và các tài sản khác gắn liền với đất số công chứng 874 ngày 20/3/2013 (sau đây gọi là: Hợp đồng số 874). Trong khi, KLGĐ số 1023/C54B đã khẳng định chữ kí trong hợp đồng này không phải chữ kí của bà Lan. Còn dấu vân tay hầu hết các KLGĐ đều kết luận dấu vân tay bị mờ nhòe, không thể hiện được dạng chung và các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Chỉ riêng KLGĐ số: 662/C54B kết luận “dấu vân tay bên phải… do cùng một người in ra”. Tuy nhiên, dấu vân tay bên trái vẫn bị mờ nhòe, ít đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định.
Các giám định trên kết luận không đủ cơ sở để khẳng định chính là dấu vân tay của bà Lan, kể cả dấu vân tay ở ngón trỏ phải và trỏ trái. Và nếu một người bằng chí tự nguyện lăn tay, thì chữ kí tất yếu phải là của người đó, không có chuyện một người tự lăn tay vào văn bản, mà chữ kí lại là của người khác. Điều này thể hiện có sự bất thường giữa chữ kí và dấu lăn tay trong hợp đồng chuyển nhượng. Nhưng, Bản án phúc thẩm xác định chính bà Lan kí và lăn tay vào hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và các tài sản khác gắn liền với đất số 874 là thể hiện dấu hiệu không có cơ sở.
Chưa làm rõ việc nguyên đơn chưa nhận tiền chuyển nhượng
Ông Viễn, nguyên đơn khẳng định: "Quá trình giải quyết vụ án, tôi và người đại diện hợp pháp của tôi luôn xác định giá trị chuyển nhượng là 6 tỉ đồng, ½ giá trị chuyển nhượng của tôi là 3 tỉ đồng và tôi chưa nhận được một đồng nào từ ông Thức". Bị đơn ông Thức, người đại diện hợp pháp của ông Thức đều khai: Giá chuyển nhượng là 300 triệu đồng và ông Thức đã trả đủ trực tiếp cho bà Lan (không có chứng cứ, không có người làm chứng).
Bản án phúc thẩm nhận định: “Theo Khoản 2 Điều 2 của Hợp đồng số: 874 các bên có thỏa thuận: “Giá chuyển nhượng là 300 triệu đồng và thanh toán một lần sau khi hai bên kí vào hợp đồng này”.
Từ nhận định này, Hội đồng xét xử cho rằng, trong trường hợp phía ông Thức chưa thanh toán khoản tiền theo hợp đồng, thì nguyên đơn ông Viễn phải có nghĩa vụ chứng minh còn nợ. Do hợp đồng hai bên thỏa thuận “Thanh toán ngay sau khi kí”. Từ đó, Hội đồng xét xử cho rằng quyền và nghĩa vụ của các bên đã thực hiện xong; và đã sửa án sơ thẩm đối với phần bản án sơ thẩm tuyên buộc ông Thức phải trả ông Viễn số tiền 3.925.752.500 đồng.
Tuy nhiên, về nghĩa vụ thanh toán: Trong hợp đồng hai bên thỏa thuận “Thanh toán ngay sau khi kí”, điều này thể hiện tại thời điểm kí Hợp đồng số 874, ông Thức chưa thanh toán bất cứ khoản tiền nào cho bên chuyển nhượng (phù hợp với lời khai của ông Thức và người đại diện của ông Thức là sau khi kí hợp đồng công chứng đã trả 300 triệu đồng cho bà Lan). Lời khai này không có chứng cứ chứng minh.
Bản án phúc thẩm. |
Thỏa thuận về việc thanh toán ngay sau khi kí là thỏa thuận không xác định thời điểm thanh toán cụ thể, việc thanh toán như thế nào, ở đâu, thanh toán bao nhiêu là do các bên tự thực hiện.
Đây là việc chuyển nhượng QSDĐ và tài sản khác gắn liền với đất nên nghĩa vụ chứng minh trả tiền thuộc về người nhận chuyển nhượng tài sản, không thể đẩy nghĩa vụ chứng minh về phía ông Viễn được, vì trả tiền là nghĩa vụ của ông Thức nên ông Thức phải là người chứng minh đã thực hiện xong nghĩa vụ trả tiền đối với ông Viễn. Không thể dựa vào thỏa thuận “thanh toán ngay sau khi kí” để cho rằng các bên đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ. Chưa kể, nếu ông Thức có trả tiền cho bà Lan thật, thì cũng không đồng nghĩa với việc ông Thức đã trả tiền cho ông Viễn.”
Chưa làm rõ những dấu hiệu Hợp đồng số 874 vô hiệu
Việc Văn phòng Công chứng Thanh Hằng lập và chứng thực vào Hợp đồng số 874, đối với tài sản chưa được phép đưa vào tham gia giao dịch dân sự (ngoại trừ QSDĐ), là có dấu hiệu làm trái pháp luật. Cụ thể: Tại điều 1 của Hợp đồng số 874, liệt kê đối tượng của hợp đồng là:
“1. QSDĐ; 2. Tài sản gắn liền với đất là cây xăng có 4 trụ bơm (có giấy phép xây dựng số 18/GPXD do Sở Xây dựng tỉnh Ninh Thuận cấp ngày 25/5/2004 và Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh doanh nghiệp tư nhân số: 4301000135 đăng kí lần đầu ngày 1/3/2004). Nhưng chưa được ghi công nhận trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S214166 do UBND huyện Ninh Hải cấp ngày 16/4/2004)”.
Trong khi, chỉ có QSDĐ mới được cấp cho ông Viễn và bà Lan. Riêng tài sản trên đất theo Giấy phép xây dựng số 18/GPXD và số 42/GPXD ngày 19/6/2008 thuộc về Doanh nghiệp Xăng dầu Khánh Sơn, và công trình xây dựng những tài sản này cũng chưa được hoàn công theo quy định. Vì vậy, ông Viễn, bà Lan chưa thể là chủ thể để có quyền chuyển nhượng, mua bán những tài sản trên đất đã được xây dựng theo các giấy phép xây dựng cấp cho Doanh nghiệp Xăng dầu Khánh Sơn.
Ngoài ra, trong Hợp đồng số 874, các bên cũng không thỏa thuận với nhau việc chuyển nhượng căn nhà cấp 4 phía sau, vì căn nhà này, ông Viễn, bà Lan dùng để ở và thờ cúng.
Đây cũng chính là lí do vì sao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN CH01359 do UBND huyện Ninh Hải cấp ngày 18/6/2013 cho ông Thức, chỉ thể hiện thửa đất số 41a, tờ bản đồ số 15, diện tích 1.180m2; tọa lạc tại địa chỉ khu phố Khánh Sơn 1, thị trấn Khánh Hải, huyện Ninh Hải, nghĩa là thể hiện đất trống. Toàn bộ tài sản trên đất cho đến hiện nay chưa được chuyển tên cho ông Thức và cũng không thể chuyển tên được cho ông Thức vì những lí do đã nói ở trên.
Do đó, việc lập và chứng thực vào Hợp đồng công chứng số 874 ngày 20/3/2013 của Văn phong Công chứng Thanh Hằng có dấu hiệu sai đối tượng, và vô hiệu.
Chưa làm rõ giá chuyển nhượng thể hiện che đậy giao dịch thực tế khác
Tại Tòa, ông Ngô Quang Viễn khai: “Hai bên thỏa thuận giá trong Hợp đồng công chứng là 300 triệu đồng, thấp hơn giá thị trường, mục đích đóng thuế thấp. Giá thực tế các bên thỏa thuận chuyển nhượng là 6 tỉ đồng, 1/2 giá trị tài sản thuộc về tôi là 3 tỉ đồng, ông Thức có nghĩa vụ phải trả cho tôi”.
Trước đó năm 2008, khi Doanh nghiệp xăng dầu (DNXD) Khánh Sơn có nhu cầu vay vốn, ngân hàng xác định giá trị tài sản là QSDĐ không bao gồm tài sản trên đất là trên 1 tỉ đồng. Hạn mức Ngân hàng cho DNXD Khánh Sơn vay là 700 - 800 triệu đồng. Trước thời điểm kí hợp đồng chuyển nhượng, DNXD Khánh Sơn còn nợ ngân hàng 400 triệu đồng. DNXD Khánh Sơn phải trả số tiền này để giải chấp GCNQSDĐ mới đủ điều kiện kí kết hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho ông Thức. Việc này phù hợp với nội dung đơn xin xác nhận ngày 10/12/2013 của ông Viễn, Ngân hàng Thương mại đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Ninh Thuận xác nhận: “Đến ngày 9/12/2013, DNXD Khánh Sơn đã thanh toán toàn bộ nợ vay và không còn dư nợ tại ngân hàng”. Việc ông Viễn phải dùng 400 triệu đồng tiền mặt để giải chấp, lấy GCNQSDĐ, sau đó lại bán cho ông Thức 300 triệu đồng là điều vô lí thứ nhất.
Theo Chứng thư thẩm định giá số: 444BĐS/2022/CTTĐG-THBM ngày 21/9/2022, tổng giá trị tài sản là 7.826.645.000 đồng, trong đó công trình xây dựng trên đất có giá trị 322.450.000 đồng, máy móc thiết bị 168 triệu đồng. Tổng cộng giá trị tài sản trên đất có giá trị là 490.450.000 đồng. Về mặt nguyên tắc theo thời gian công trình xây dựng trên đất cũng như máy móc thiết bị đều giảm giá trị rất nhiều (tức phải khấu hao giá trị tài sản). Tuy nhiên, tính từ thời điểm xây dựng năm 2004 đến nay đã là 18 năm; tính từ thời điểm chuyển nhượng (tháng 3/2013) đến nay (tháng 10/2022) đã là 9 năm 7 tháng, mặc dù đã bị khấu hao giá trị nhưng tài sản trên đất này vẫn còn lại giá trị là 490.450.000 đồng, chưa kể cộng thêm giá trị QSDĐ 1.180m2. Mà trên thực tế, giá trị QSDĐ đối với diện tích đất nói trên lớn hơn nhiều lần so với giá trị tài sản trên đất cộng lại. Vậy không thể có việc vào năm 2013, ông Viễn, bà Lan chuyển nhượng bao gồm cả quyền sử dụng 1.180m2 đất và toàn bộ tài sản trên đất, chỉ với giá 300 triệu đồng. Đây là điều vô lí thứ hai.
Bản án phúc thẩm nêu: “Sau khi ông Thức hoàn thành thủ tục chuyển nhượng doanh nghiệp năm 2013, đến năm 2014, ông Thức có thay máy bơm xăng của 4 trụ bơm với số tiền 160 triệu đồng, làm lại mái trụ bơm xăng hết khoảng 100 triệu đồng, có hóa đơn chứng từ hợp lệ. Tại phiên tòa, đại diện của ông Thức xác định tổng giá trị xây dựng, làm mới, cũng như sửa chữa trụ bơm xăng trên thửa 41a từ năm 2014 đến nay tổng cộng là 2,1 tỉ đồng”. Ông Viễn, bà Lan chuyển nhượng 1.180m2 đất, 4 trụ bơm xăng, cùng nhiều tài khác trên đất, không lẽ giá chuyển nhượng chỉ có 300 triệu đồng như ông Thức khai? Đây là vô lí thứ ba.
Từ đó có thể thấy, việc ông Viễn, bà Lan, ông Thức thỏa thuận giá ghi trên hợp đồng công chứng thấp hơn nhiều lần so với giá thỏa thuận chuyển nhượng, là thể hiện việc che đậy giao dịch thực tế khác. Điều này chưa được các cấp tòa án xem xét, giải quyết”.
Chưa làm rõ tính hợp pháp của giấy tặng cho doanh nghiệp
Hồ sơ thể hiện quá trình giải quyết vụ án, bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn xác nhận: Trên cơ sở Giấy tặng cho Doanh nghiệp tư nhân ngày 7/3/2013 và yêu cầu công chứng bổ sung hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và các tài sản gắn liền với đất ngày 26/6/2013, ông Thức đã hoàn tất thủ tục chuyển tên, thay đổi doanh nghiệp để đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh đối với DNXD Khánh Sơn (nay là Công ty TNHH dịch vụ Xăng dầu Khánh Hải).
Bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều cho rằng, ông Viễn, bà Lan đã kí vào giấy tặng cho doanh nghiệp, ngoài ra sau khi bà Lan chết (ngày 24/4/2013), ông Viễn còn cùng ông Thức lập hợp đồng yêu cầu công chứng bổ sung hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và các tài sản gắn liền với đất ngày 26/6/2013 là hợp pháp nên không chấp nhận các yêu cầu của ông Viễn về việc: Hủy Giấy tặng cho Doanh nghiệp tư nhân ngày 7/3/2013; hủy Giấy chứng nhận doanh nghiệp Công ty TNHH dịch vụ xăng dầu Khánh Hải do ông Thức đứng tên; ông Viễn được quyền liên hệ Sở Kế hoạch và Đầu tư để hoàn tất thủ tục đứng tên trên Giấy phép đăng kí kinh doanh xăng dầu.
Tuy nhiên, Giấy tặng cho Doanh nghiệp tư nhân ngày 7/3/2013 thể hiện không phù hợp về hình thức và nội dung, cụ thể:
Theo quy định tại Điều 44 Nghị định: 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ về việc đăng kí thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân trong trường hợp bán, tặng cho doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp chết, mất tích thì hồ sơ thay đổi chủ doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện sau đây:
“1. Thông báo thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân có chữ kí của người bán, người tặng cho và người mua, người được tặng cho doanh nghiệp tư nhân đối với trường hợp bán, tặng cho doanh nghiệp tư nhân.
3. Hợp đồng mua bán, hợp đồng tặng cho doanh nghiệp và các giấy tờ chứng minh hoàn tất việc chuyển nhượng, tặng cho đối với trường hợp bán, tặng cho doanh nghiệp tư nhân”.
Tuy nhiên, ông Thức chỉ cung cấp cho Sở Kế hoạch và Đầu tư giấy tặng cho doanh nghiệp tư nhân làm căn cứ để thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân từ bà Lan sang ông Thức. Đây không phải hợp đồng mua bán, tặng cho doanh nghiệp, đồng thời giấy tặng cho doanh nghiệp tư nhân này không thể hiện có việc chứng thực, chứng nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền mà bên góc trái của giấy tặng cho chỉ có chứng thực của UBND thị trấn Khánh Hải về việc “chứng thực bản sao đúng với bản chính”. Và, theo Kết luận giám định số: 1023/C54B ngày 8/5/2017, chữ kí trong giấy tặng cho DNTN này không phải chữ kí của bà Lan.
Những căn cứ nêu trên thể hiện Giấy tặng cho DNTN ngày 7/3/2013, không phát sinh hiệu lực pháp luật để có thể dùng giấy này làm căn cứ thay thế chủ doanh nghiệp tư nhân từ bà Lan sang ông Thức.
Nguyện vọng của người cao tuổi
Trong đơn gửi cơ quan chức năng, ông Viễn nêu:
“Ngoài những tình tiết chưa được làm rõ trên đây, hồ sơ vụ án còn thể hiện: Có dấu hiệu Giấy tặng cho DNTN ngày 7/3/2013 là vô hiệu, nên việc thay đổi chủ doanh nghiệp từ bà Lan sang ông Thức là không hợp pháp.
Về yêu cầu công chứng bổ sung hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất ngày 26/6/2013: Lúc này bà Lan đã chết (ngày 24/4/2013). Người còn sống (ông Viễn) lại thay luôn về mặt ý chí của bà Lan – người đã chết để kí bổ sung Hợp đồng số 874. Do đó, việc ông Thức dùng yêu cầu công chứng bổ sung hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và tài sản gắn liền với đất ngày 26/6/2013 để đưa vào hồ sơ đăng kí thay đổi DNXD Khánh Sơn và được Sở KH&ĐT tỉnh Ninh Thuận chấp nhận là có dấu hiệu vi phạm Luật Doanh nghiệp năm 2005.
Do việc tặng cho DNXD Khánh Sơn giữa ông Viễn, bà Lan và ông Thức thể hiện không phù hợp với quy định pháp luật, nên việc thay đổi chủ doanh nghiệp từ bà Lan sang ông Thức là có dấu hiệu không hợp pháp. Tôi yêu cầu được xét xử: Giấy tặng cho DNTN ngày 7/3/2013 là vô hiệu; và áp dụng Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu như sau: Giấy tặng cho DNTN ngày 7/3/2013 không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa tôi, bà Lan và ông Thức đối với DNXD Khánh Sơn kể từ thời điểm ngày 7/3/2013. Cụ thể: ông Thức phải trả lại tài sản gắn liền với đất thuộc DNXD Khánh Sơn cho tôi và những người thừa kế của bà Lan; hủy Giấy tặng cho DNTN ngày 7/3/2013 và hủy Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh doanh nghiệp của Công ty TNHH dịch vụ xăng dầu Khánh Hải; công nhận quyền sở hữu tài sản trên đất cho tôi; tôi có nghĩa vụ hoàn trả lại ½ giá trị tài sản trên đất cho các đồng thừa kế của bà Lan khi các đồng thừa kế của bà Lan có yêu cầu; tôi được quyền liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để hoàn tất thủ tục đứng tên trên Giấy chứng nhận DNTN”.
Thực hiện quy định tại Điều 5 Luật Người cao tuổi năm 2009, game bài đổi thưởng tiền that trân trọng chuyển nội dung vụ việc trên đến Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Ninh Thuận xem xét, kiến nghị giải quyết theo chức năng thẩm quyền về sự việc phản ánh trên đây; thông báo kết quả để Tạp chí trả lời ông Ngô Quang Viễn và bạn đọc theo quy định.