Huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk: Có hay không dấu hiệu hình sự hóa vụ việc dân sự? (Tiếp theo kì trước)
Pháp luật - Bạn đọc 12/09/2019 08:49
Bản án số 249/2019/HSPT ngày 22/8/2019 của TAND tỉnh Đắk Lắk, xử y án Bản án hình sự sơ thẩm. Ngày 5/9/2019, các bị cáo Nam, Vui có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án số 249/2019/HSPT ngày 22/8/2019 của TAND tỉnh Đắk Lắk. Đơn của các bị cáo nêu những lí do đề nghị giám đốc thẩm:
Một, dấu hiệu vi phạm về tố tụng: Bị cáo đã làm đơn xin được hoãn phiên tòa vì lí do sức khỏe đang điều trị bệnh tại bệnh viện. 7 giờ 30 phút sáng 22/8/2019, thư kí phiên tòa có gọi điện thoại cho bị cáo xác nhận việc đã nhận được đơn xin hoãn phiên tòa. Nhưng ngày 4/9/2019, bị cáo nhận được Bản án số 249 ngày 22/8/2019 của TAND tỉnh Đắk Lắk qua đường bưu điện(!?).
Như vậy, bị cáo vắng mặt có lí do, thuộc trường hợp được hoãn phiên tòa xét xử vụ án hình sự theo quy định tại điểm a, Khoản 1, Điều 297 Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 là hoãn phiên tòa. Tòa án đã vi phạm Khoản 1, Điều 290 Bộ luật TTHS năm 2015. Sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án trong suốt thời gian xét xử vụ án; nếu vắng mặt không vì lí do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì bị áp giải; nếu bị cáo vắng mặt vì lí do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì phải hoãn phiên tòa; và điểm b, Khoản 2, Điều 61 Bộ luật TTHS năm 2015: Quyền của bị cáo.
Bản án số 249/2019/HSPT ngày 22/8/2019 của TAND tỉnh Đắk Lắk. |
Hai, như đã phản ánh ở kì báo trước, có dấu hiệu các bị can Nam và Vui bị truy tố và khởi tố oan sai; có dấu hiệu hình sự hóa quan hệ tranh chấp dân sự.
Cáo trạng số 14/CT/VKS, ngày 23/4/2019 truy tố về tội “Hủy hoại tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 178 BLHS năm 2015 là không đủ cơ sở. Các cơ quan tố tụng cho rằng: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác; diện tích đất tranh chấp đã được TAND các cấp giải quyết bác yêu cầu của ông Nam và bà Vui; bản án có hiệu lực pháp luật, đồng thời số cây keo trên diện tích đất này là do bà Hảo trồng vào các năm 2014 và 2015, nên đây là tài sản hợp pháp của bà Hảo. Tuy nhiên, sự thật là các đương sự của vụ án đã xảy ra tranh chấp đất từ năm 2012, có khởi kiện ra Tòa án. Quá trình chờ Tòa án giải quyết, cuối năm 2014 và đầu năm 2015 gia đình bà Hảo cố tình trồng cây keo để tạo ra tài sản hình thành bất hợp pháp trên đất tranh chấp. Ngày 23/9/2015, UBND xã Ea Lai có Thông báo số 30/TB/UBND về việc tạm đình chỉ sử dụng đất đang tranh chấp: “Thửa đất đang tranh chấp đã được đo đạc nhưng chưa có văn bản giao, khoán cho tổ chức cá nhân nào”.
Như vậy, quan điểm của Cáo trạng của Viện KSND huyện cho rằng, bà Hảo có tài sản hợp pháp (cây trồng trên đất đang có tranh chấp) là thiếu cơ sở. Do vậy, việc ra quyết định truy tố các bị can Nam và Vui có dấu hiệu áp dụng sai pháp luật, có thể dẫn đến oan sai cho các bị can.
Ba, dấu hiệu pháp lí của tội phạm tội “Hủy hoại tài sản” là một trong các tội xâm phạm đến quyền sở hữu. Một trong những quan hệ xã hội đặc biệt quan trọng được pháp luật bảo vệ. Tội “Hủy hoại tài sản” được cấu thành khi hành vi phạm tội thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm.
Theo đó, khách thể bị xâm phạm của tội “Hủy hoại tài sản” là đã xâm phạm đến quyền sở hữu bao gồm các quyền sau đây: Quyền định đoạt, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng (Đối tượng được tác động của tội “Hủy hoại tài sản” là các tài sản hữu hình). Chủ thể của tội “hủy hoại tài sản” là người có năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Xét về mặt bản chất, mức độ thiệt hại về tài sản chính là định lượng duy nhất trong quan hệ này. Quy định này nhằm khắc phục sự không phù hợp khi vừa áp dụng tình tiết định khung dựa trên giá trị tài sản bị thiệt hại, vừa áp dụng tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT/TANDTC/VKSNDTC/BCA/BTP ngày 25/12/2001 của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, TAND Tối cao và Viện KSND Tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999, Luật sửa đổi năm 2009 và đang còn hiệu lực pháp luật. Đồng thời, được hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật bởi Điều 152 Luật số 80/2015/QH13 ngày 22/6/2015 Quốc hội ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Chỉ đạo số 5003/VKSTC/V14 ngày 2/12/2016 của Viện KSND Tối cao về việc hướng dẫn áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội trong BLHS năm 2015 và các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015.
Như vậy, chứng cứ để chứng minh tội “Hủy hoại tài sản” phải xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì; mục đích, động cơ phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay là tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt? Để bảo đảm tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật, trong các trường hợp phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ phạm tội, căn cứ của hậu quả do tội phạm gây ra để định khung. Từ đó, các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và truy tố oan sai người vô tội.
Như đã phân tích và đối chiếu với các điều luật nêu trên, cho thấy việc Viện trưởng Viện KSND huyện M’Drắk ra Quyết định truy tố (cáo trạng) số 14/CT/VKS, ngày 23/4/2019 truy tố các bị can về tội “Hủy hoại tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 178 BLHS năm 2015, là thiếu cơ sở, không tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội cho bị can và có dấu hiệu “hình sự hóa trong quan hệ tranh chấp dân sự”. Đây là những cơ sở để cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm
Từ những phản ánh trên, Báo Người cao tuổi đề nghị Chánh án TAND Cấp cao 2; Viện trưởng Viện KSND Cấp cao 2, tại TP Đà Nẵng xem xét, giải quyết theo thẩm quyền để kháng nghị đối với Bản án số 249/2019/HSPT ngày 22/8/2019 của TAND tỉnh Đắk Lắk theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 371 Bộ luật TTHS năm 2015.