Huyện M’Drắk, tỉnh Đắk Lắk: Có hay không dấu hiệu hình sự hóa vụ việc dân sự?
Pháp luật - Bạn đọc 11/09/2019 09:40
Khởi kiện có cơ sở!
Diện tích đất tranh chấp tại thôn 5, xã Ea Lai, huyện M’Drắk, có nguồn gốc đất do ông Tăng Xuân Thiên và vợ là bà Nguyễn Thị Hợp khai hoang. Đến năm 2002, ông Thiên, bà Hợp cho các con là ông Tăng Xuân Nam và vợ là bà Nguyễn Thị Vui sử dụng (khoảng 5ha). Ngày 20/9/2008, vợ chồng ông Nam, bà Vui chuyển nhượng khu đất trên cho ông Trần Viết Thắng. Tuy nhiên, do ông Thắng không đủ tiền, ông Nam đã lấy lại 5.485m2 đất. Bất ngờ, năm 2013, hộ bà Phạm Thị Hảo, người cùng địa phương, trồng cây trên diện tích đất trên. Do đó, ông Nam, bà Vui khởi kiện ra tòa yêu cầu hộ bà Hảo trả lại 5.485m2 đất với lí do:
Một, ông Nam, bà Vui sử dụng đất hợp pháp. Đất có nguồn gốc rõ ràng, hộ ông Nam sử dụng ổn định, liên tục từ trước năm 2002 đến năm 2013. Qúa trình sử dụng đất được Chủ tịch UBND xã Ea Lai xác nhận, không có tranh chấp. Năm 2009, vợ chồng ông Nam làm thủ tục kê khai để cơ quan chức năng đo đạc, xác định vị trí đất thuộc thửa 11, tờ bản đồ số 35, diện tích 4.961,6m2 (có chênh lệch so với biên bản thẩm định của Tòa án, nhưng vị trí đất không thay đổi). Việc sử dụng đất cũng như việc kê khai đất để đo đạc và kê khai thiệt hại để làm thủ tục bồi thường của hộ ông Nam, bà Hảo biết nhưng không có ý kiến và tranh chấp gì (kể cả khi ông Nam chuyển nhượng cho ông Thắng).
Hai, Công ty Lâm nghiệp thiết kế, đo đạc quy hoạch đất trái luật. Bởi lẽ, trước khi thiết kế, đo đạc đất quy hoạch trồng rừng vào năm 2002, hộ ông Nam đã sử dụng có đăng kí kê khai hợp pháp thửa đất trên. Qúa trình thiết kế, Công ty Lâm nghiệp đã quy hoạch bao trùm cả diện tích đất của hộ ông Nam vào diện tích đất trồng rừng. Sau đó Công ty không bóc tách phần diện tích này ra mà giao cả phần diện tích này cho hộ bà Hảo trong tổng diện tích 6,8 ha. Việc này trước và sau khi nhận đất trồng rừng những người tiến hành quy hoạch đều biết, hộ bà Hảo cũng biết nhưng không có ý kiến gì, mà vẫn để hộ ông Nam canh tác trên phần đất đã bị Công ty thiết kế, quy hoạch.
Việc hộ bà Hảo cho rằng, đất do Công ty Lâm nghiệp giao cho gia đình bà trồng rừng nên thuộc quyền sử dụng của bà là không đúng. Vì, nếu muốn giao cả phần đất của hộ ông Nam cho hộ bà Hảo thì Công ty Lâm nghiệp phải tiến hành thu hồi đất của hộ ông Nam, sau đó mới giao cho hộ bà Hảo theo quy định tại Điều 21, Luật Đất đai năm 1993: “Việc quyết định giao đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định thu hồi đất đó”. Không có quyết định thu hồi đất của hộ ông Nam và theo Điều 26 Luật Đất đai năm 1993, thì đất của hộ ông Nam không thuộc trường hợp bị thu hồi. Hơn nữa, sau khi được giao đất đến năm 2013, hộ bà Hảo không sử dụng đất tranh chấp, mà đất này vẫn do hộ ông Nam sử dụng ổn định. Mặt khác, năm 2010, Công ty Lâm nghiệp đã giao trả lại đất quy hoạch trồng rừng cho UBND xã Ea Lai, trong đó có cả đất tranh chấp. Như vậy, tại thời điểm đó hợp đồng giữa hộ bà Hảo với Công ty Lâm nghiệp đã hết hiệu lực. Tuy nhiên, hộ bà Hảo không trả lại đất cho địa phương, mà tiếp tục chiếm giữ phần đất của hộ ông Nam đang sử dụng là không phù hợp quy định pháp luật.
Từ các lẽ trên, có thể thấy, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả toàn bộ phần đất đang chiếm giữ tại thửa 11 tờ bản đồ số 35 diện tích 5.485m2, là có cơ sở.
Tài sản bị hủy hoại không được hình thành quyền sở hữu hợp pháp!
Theo nội dung của phần nhận định trong Quyết định Giám đốc thẩm số: 85/2018/DS-GĐT ngày 5/11/2018 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng: Ngày 31/10/2008, UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 2897/QĐ-UBND thu hồi 25.855.612m2 đất của Công ty Lâm nghiệp M’Drắk giao cho UBND huyện M’Drắk quản lí, trong đó có 2.888.881m2 đất thu hồi tại xã Ea Lai. Tại Công văn số 97/CV-TNMT ngày 17/4/2017 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện M’Drắk xác định diện tích đất thu hồi tại xã Ea Lai là 2.888.881m2 có diện tích đất tranh chấp như nguyên đơn yêu cầu; diện tích đất tranh chấp thuộc quyền quản lí của Nhà nước, mà không thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Chiến, bà Hảo.
Về chứng cứ để chứng minh tội “Hủy hoại tài sản” là chứng cứ xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ cụ thể. Xét về mặt bản chất, mức độ thiệt hại về tài sản chính là định lượng duy nhất xác định trong quan hệ này. Để khắc phục sự không phù hợp khi vừa áp dụng tình tiết định khung dựa trên giá trị tài sản bị thiệt hại, vừa áp dụng tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, theo Thông tư liên tịch số 02/2001 /TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, TAND Tối cao, Viện KSND Tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự (BLHS) đang còn hiệu lực pháp luật. Đồng thời được coi có hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật bởi Điều 152 Luật số 80/2015/OH13 ngày 22/6/2015 do Quốc hội ban hành; và Chỉ đạo số 5003/VKSTC-V14 ngày 2/12/2016 của Viện KSND Tối cao hướng dẫn áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội trong BLHS năm 2015 và các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015.
Trong vụ án tranh chấp dân sự trên, UBND xã Ea Lai cũng đã thực hiện thẩm quyền tổ chức hòa giải cấp cơ sở căn cứ theo Điều 202 Luật Đất đai năm 2013; Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ-CP; khoản 57, Điều 2, Nghị định 01/2017/NĐ-CP; đồng thời cũng đã ban hành Thông báo số 30/TB-UBND ngày 23/9/2015 về việc tạm đình chỉ sử dụng đất đang tranh chấp, đề nghị các bên không canh tác và tạm thời giao cho thôn 5 quản lí. Ngày 11/10/2015, gia đình bà Hảo cố tình trồng cây cũng đã bị UBND xã lập biên bản đình chỉ hành vi xem thường pháp luật và cố tình tạo ra tài sản không hợp pháp nêu trên.
Ông Nam cho rằng: “Phía gia đình bà Hảo đã cố tình trồng cây trên đất đang có tranh chấp, không nghiêm chỉnh thực hiện quy định của chính quyền xã. Mặt khác, theo tôi, nguồn gốc đất là của bố mẹ khai hoang và cho vợ chồng chúng tôi, nên bất kì người nào khác trồng cây bất hợp pháp trên đất của gia đình, thì chúng tôi có quyền ngăn cản, chặt bỏ. Hơn nữa quá trình giải quyết tranh chấp đất đai, chính quyền xã cũng đã ban hành Thông báo số 30/TB-UBND ngày 23/9/2015 về việc tạm đình chỉ sử dụng đất đang tranh chấp, đề nghị các bên không canh tác và tạm thời giao cho thôn 5 quản lí. Đây là những cơ sở để chúng tôi phải chặt cây để bảo vệ chủ quyền sử dụng đất. Do đó không thể coi chúng tôi có hành vi hủy hoại tài sản”.
Có dấu hiệu hình sự hóa việc dân sự?
Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện M’Drắk ban hành Quyết định khởi tố bị can số 17 ngày 26/3/2019, căn cứ cho rằng bà Vui đã có hành vi cùng chồng là ông Nam chặt hạ cây keo trồng 2,5 năm tuổi của bà Hảo vào ngày 6/10/2017, tại thôn 5, xã Ea Lai.
Bản án số: 13/2019/HSST ngàv 5/6/2019 của TAND huyện M’Drắk tuyên bố bị cáo Nam và Vui phạm tội “Hủy hoại tài sản”, xử phạt Tăng Xuân Nam 1 năm tù; Nguyễn Thị Vui 9 tháng tù, nhưng cho hướng án treo.
Có thể thấy, hành vi chặt cây của ông Nam và bà Vui, có lí do từ việc giải quyết tranh chấp dân sự. Tài sản (cây trồng) mà ông Nam, bà Vui hủy hoại, thực tế là tài sản không được hình thành quyền sở hữu hợp pháp theo quy định. Do đó, hành vi này của ông Nam, bà Vui là không thuộc một trong “Các tội xâm phạm sở hữu”. Việc các cơ quan tố tụng vẫn khởi tối, truy tố và xét xử ông Nam, bà Vui về tội “Hủy hoại tài sản” là không phù hợp thực tế vụ án, thể hiện dấu hiệu hình sự hóa vụ việc dân sự. (Còn nữa)