Giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Năm, ở phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh: Quận bỏ sót nội dung, thành phố làm trái Luật Khiếu nại
Pháp luật - Bạn đọc 10/09/2019 08:51
Đất đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
Trong đơn thư, bà Năm phản ánh: Phần đất 4.501,6m2, thửa đất số 139, tờ bản đồ bản đồ địa chính số 34 phường Bình Chiểu, tọa lạc địa chỉ 1047/16/6/5 Tỉnh lộ 43, khu phố 2, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, trước năm 1975, do ông Nguyễn Thành Luông đứng bộ. Sau năm 1975, ông Luông bỏ hoang, Nhân dân địa phương tiếp nhận để canh tác. Năm 1979, diện tích đất được đưa vào Tập đoàn 15, gia đình bà Năm được giao khoán sử dụng. Năm 1989, Tập đoàn 15 giải thể, gia đình bà Năm tiếp tục canh tác. Năm 1990, bà Năm xây dựng căn nhà để ở và tiếp tục canh tác cho đến nay không ai tranh chấp, phù hợp quy hoạch, không có bất cứ quyết định quản lí nào, hoặc biện pháp ngăn chặn nào của Nhà nước. Từ năm 1989 cho đến nay, gia đình bà Năm đã kê khai nhà đất 1999, có sổ đóng thuế nhà đất, biên bản xác định ranh giới năm 2002 và quyết định cấp số nhà.
Như vậy, 4.501,6m2 đất gia đình bà Năm quản lí, sử dụng có nguồn gốc được giao khoán năm 1984 và sử dụng ổn định liên tục cho đến nay, không tranh chấp, phù hợp quy hoạch, có đầy đủ giấy tờ chứng minh quá trình sử dụng đất. Căn cứ Điều 20, 21, 23 Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ, có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định Điều 14, Nghị định 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ và chủ trương của UBND quận Thủ Đức tại Văn bản 434/TNMT ngày 1/7/2013 của Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Thủ Đức; và đủ điều kiện đền bù khi giải tỏa thu hồi đất. Thực tế, năm 2013, UBND quận Thủ Đức đã cấp Giấy chứng nhận diện tích 1.461,6m2 /4.501,6m2 tại thửa đất 139 nói trên cho gia đình bà Năm.
Quận bỏ sót nhiều nội dung
Cạnh 4.501,6m2 đất gia đình bà Năm quản lí, sử dụng, có phần đất công vườn liễu do UBND phường Bình Chiểu quản lí diện tích 5.477m2 gồm các thửa đất 33, 45, 127, 142 tờ bản đồ số 34, 40. Thực tế phần đất 4.501,6m2 trên, bà Năm được giao khoán năm 1984; không thuộc quản lí của Công ty Công ích quận Thủ Đức, nên không thuộc diện xử lí theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ (Văn bản 125/BC-UB ngày 2/2/2007 của UBND phường Bình Chiểu). Nhưng do UBND phường Bình Chiểu không đo đạc chính xác nên diện tích đất công trong Văn bản 125/BC-UB thành 15.810m2; và diện tích đất công trong Văn bản 7093/UBND-TM ngày 15/11/2008 của UBND TP cũng 15.810m2, là không đúng thực tế, có nhầm lẫn với đất của bà Năm. Hậu quả nhầm lẫn trên, dẫn đến việc, năm 2009, UBND quận Thủ Đức giải tỏa 1.000m2 đất gia đình bà Năm để làm kênh Ba Bò nhưng không bồi thường, vì cho rằng là đất công vườn liễu.
“Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất (theo hiện trạng sử dụng đất)” lập ngày 29/10/2002, thể hiện rõ ràng: 4501,6m2 đất gia đình bà Năm quản lí, sử dụng lúc này do anh Phạm Duy Nhất (con trai bà Năm) đứng tên “CHỦ ĐẤT”. |
Từ năm 2014 đến năm 2016, gia đình bà Năm từ nộp hồ sơ chuyển mục đích phần đất đã có giấy chứng nhận và nộp đơn yêu cầu UBND quận Thủ Đức cấp giấy chứng nhận phần đất còn lại (thực tế đo đạc 1.749,6m2) thuộc thửa đất 139, liền canh liền cư với phần đất 1.461,6m2 nói trên, nhưng bị bác đơn (Văn bản 2111/UBND-TNMT ngày 8/6/2016).
Quyết định số 7904/UBND-TNMT ngày 30/12/2016 của UBND quận Thủ Đức, cho rằng: “Phần đất 1.749,6m2 bà Năm xin cấp giấy chứng nhận không có giấy tờ chứng minh quá trình sử dụng đất. Phần đất này do Nhà nước đang trực tiếp quản lí, nằm trong danh sách đất công vườn liễu diện tích 15.810m2 theo Quyết định số 09/2007/TTg ngày 19/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ”; “Phần đất bà Năm xin chuyển mục đất ở đang sử dụng đường của Nhà nước”.
Tuy nhiên, Quyết định số 7904/UBND-TNMT ngày 30/12/2016 của UBND quận Thủ Đức giải quyết khiếu nại không khách quan, bỏ sót nội dung thực tế phần đất 1.749,6m2/4.501,6m2 đất là do gia đình bà Năm quản lí, sử dụng hợp pháp (như đã nói trên). Cụ thể thêm: Trong quyết định này không nói gì đến thực tế 4.501,6m2 đất gia đình bà Năm quản lí, sử dụng có nguồn gốc được giao khoán năm 1984, năm 1999, bà Năm có kê khai nhà đất và sử dụng ổn định liên tục, không tranh chấp, phù hợp quy hoạch, có đầy đủ giấy tờ chứng minh quá trình sử dụng đất, có đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
Bà Đặng Thị Kim Anh, đại diện theo ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Năm, bức xúc: “Tại sao trong Quyết định số 7904/UBND-TNMT ngày 30/12/2016 của UBND quận Thủ Đức, không nói gì đến việc năm 1999, bà Năm có kê khai, đăng kí nhà đất? Và tại sao không xem xét nội dung “Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất (theo hiện trạng sử dụng đất)” lập ngày 29/10/2002, thể hiện rõ ràng: 4.501,6m2 đất gia đình bà Năm quản lí, sử dụng lúc này do anh Phạm Duy Nhất (con trai bà Năm) đứng tên “CHỦ ĐẤT” trong biên bản này (Biên bản hiện đang lưu trữ tại Văn phòng Đăng kí đất đai thành phố)? Chúng tôi yêu cầu UBND quận Thủ Đức trả lời như sau: Toàn bộ diện tích đất ghi trong “Tờ kê khai, đăng kí nhà đất” năm 1999 và ghi trong sơ đồ của “Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất (theo hiện trạng sử dụng đất)” lập ngày 29/10/2002, hiện nay đang ở đâu, do ai quản lí? Việc quản lí, sử dụng này có hợp pháp hay không? Tại sao quyền sử dụng đất của gia đình bà Năm có nguồn gốc rõ ràng, có kê khai, đăng kí hợp pháp theo quy định lại không được công nhận? Trong khi chính quyền phường, huyện không có giấy tờ gì chứng minh về nguồn gốc, về quản lí sử dụng hợp pháp, thì lại được công nhận? Chúng tôi khẳng định: Một khi chưa làm rõ những điều nghi vấn này, mà kết luận, đất “do Nhà nước đang trực tiếp quản lí, nằm trong danh sách đất công vườn liễu”, là vội vàng, không có cơ sở, không đúng thực tế và là giải quyết không khách quan!” (Còn nữa)