Đồng Nai: Có dấu hiệu chiếm đoạt di sản thừa kế, khiến người sử dụng đất hàng chục năm trắng tay
Đơn thư bạn đọc 12/11/2020 08:15
Khu đất bà Diền bị mất quyền hưởng di sản thừa kế quyền sử dụng. |
Nhà trên đất bà Diền bị mất quyền hưởng di sản thừa kế quyền sử dụng. |
Nguồn gốc đất là tài sản chung
Bà Diền, sinh 1964, ngụ xã Phước An, huyện Nhơn Trạch. Các cụ cố nội bà Diền là cụ Nguyễn Văn Liều và cụ Huỳnh Thị Thìn, có 4 con là ông Nguyễn Văn Đâu, bà Nguyễn Thị Xàng, bà Nguyễn Thị Hiếu, ông Nguyễn Văn Phi. Năm 1950, vợ chồng cụ Liều, Thìn cho ông Đâu 46.293m2 đất ở thôn Vũng Gấm, xã An Phước, huyện Nhơn Trạch để canh tác; ông Phi được cho một phần đất ra ở riêng; bà Xàng, bà Hiếu sống chung với cha mẹ và ông Đâu.
Ông Đâu sinh ông Nguyễn Văn Dô. Ông Đâu chết, ông Dô tiếp quản đất canh tác cùng bà Xàng. Ông Dô lấy vợ sinh ra bà Diền. Ông Dô chết năm 1966, vợ ông Dô đi lấy chồng khác. Từ nhỏ bà Diền sống với bà Xàng, bà Hiếu chung hộ khẩu trên phần đất 46.293m2 trên. Bà Diền được các bà Nội cô giao lại 14.738 m2 đất, năm 1980 cất nhà và canh tác nông nghiệp liên tục, ổn định.
Tại Báo cáo số 36/BC.TT ngày 28/4/2010 của Thanh tra huyện Nhơn Trạch, nêu: “Nguồn gốc đất 46.293m2 là của cha mẹ bà Xàng khai phá, cho ông Đâu, bà Xàng canh tác từ năm 1950. Ông Đâu tham gia cách mạng hy sinh, bà Xàng, ông Dô (cha bà Diền) tiếp tục canh tác. Ông Dô chết, bà Xàng, bà Hiếu tiếp tục canh tác…”.
Theo bà Diền: Bà Xàng, bà Hiếu là bà Nội cô ruột, lại là người nuôi dạy khôn lớn nên coi như cha mẹ ông bà mình, nên năm 1998, bà Xàng đăng ký QSDĐ 46.293m2 cho cả gia đình, nghĩ mình là thành viên trong gia đình nên quyền lợi cũng được bảo đảm nên bà không thắc mắc. Ngày 9/4/1999, UBND huyện Nhơn Trạch cấp Giấy chứng nhận QSDĐ (sổ đỏ) số L 578653 cho bà Xàng đứng tên hộ sử dụng.
Ngày 24/3/2003, bà Xàng mất, ngày 7/4/2003, bà Hiếu làm thủ tục nhận thừa kế đất theo giấy chứng nhận của bà Xàng. UBND huyện Nhơn Trạch ghi nhận: “Nguồn gốc đất do ông bà để lại cho bà Xàng trước 1975. Bà Xàng sử dụng đến năm 2003 (chết) để lại cho em ruột là bà Hiếu sử dụng…”.
Như vậy, nguồn gốc diện tích đất 46.293m2 đất do ông cha để lại; bà Xàng, bà Hiếu là người kế thừa, quản lý sử dụng qua các thời kỳ, trong đó có vai trò của bà Diền cùng quản lý, trông coi.
Có dấu hiệu chiếm đoạt di sản thừa kế
Ngày 2/7/2003, UBND huyện Nhơn Trạch ban hành Quyết định số 1723/QĐ.CT.UBH thu hồi sổ đỏ của bà Xàng cấp lại cho bà Hiếu. Qúa trình sử dụng, bà Hiếu chuyển nhượng đất, nên trong giấy chứng nhận chỉ còn 26.981m2. Năm 2010, bà Hiếu có tờ di chúc để lại toàn bộ đất cho vợ chồng ông Lê Văn Sơn và Phan Thị Hải. Nội dung di chúc thể hiện, chỉ cho ông Sơn, bà Hải quyền quản lý sử dụng đất, còn quyền định đoạt phải hỏi ý kiến bà Nguyễn Thị Diện (con của bà Xàng). Năm 2014, bà Hiếu chết. Ông Sơn, bà Hải làm thủ tục nhận thừa kế và được cấp giấy chứng nhận đứng tên toàn bộ 26.981m2 đất. Năm 2016, ông Sơn, bà Hải khởi kiện bà Diền ra Tòa đòi lại toàn bộ diện tích đất mà bà Diền đang quản lý, sử dụng.
Điều đáng nói, theo bà Diền, có dấu hiệu khuất tất trong việc dịch chuyển di sản thừa kế là toàn bộ đất đai từ bà Xàng qua bà Hiếu và từ bà Hiếu qua ông Sơn, bà Hải. Cụ thể, năm 2003, khi bà Xàng mất, bà Diện với tư cách là người con duy nhất của bà Xàng, có đơn xin để lại hết di sản của bà Xàng cho bà Hiếu. Tuy nhiên bà Diện đã định cư ở nước ngoài từ trước năm 1990, thời điểm bà Xàng chết năm 2003, Luật Đất đai 1993 chưa có quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài được đứng tên trên đất nông nghiệp tại Việt Nam; Luật Dân sự năm 1995 cũng không có quy định cho Việt Nam định cư ở nước ngoài thừa kế đất nông nghiệp tại Việt Nam. Do đó, bà Diện thực tế không hề có quyền thừa kế để chuyển QSDĐ lại cho bà Hiếu; về pháp lý, hành vi của bà Diện là không phù hợp pháp luật.
Hơn nữa, trong hồ sơ nhận thừa kế thì bà Hiếu kê khai và cơ quan nhà nước xác nhận bà Xàng chỉ có người em là bà Hiếu. Bà Diền cho rằng, thời điểm khai nhận thừa kế, có dấu hiệu thể hiện dấu hiệu bà Hiếu cố ý khai sót hàng thừa kế là ông Đâu, ông Phi (là anh em ruột của bà Xàng, bà Hiếu); và cũng không kê khai đất thực tế bà Diền đang trực tiếp quản lý sử dụng 14.738 m2. Hành vi này của bà Hiếu có dấu hiệu thể hiện tước bỏ toàn bộ quyền lợi hợp pháp liên quan đến di sản là quyền sử dụng 46.293m2 đất do ông cố để lại. Trong đó bà Diền là người thừa kế duy nhất của ông Đâu và ông Dô đã bị mất quyền thừa hưởng di sản do ông và cha ruột để lại; đồng thời bị mất quyền thừa kế thế vị của ông Đâu, có quyền thừa hưởng 1/3 di sản bà Xàng để lại.
Về việc năm 2016, ông Sơn, bà Hải (người hưởng thừa kế theo di chúc của bà Hiếu) khởi kiện bà Diền trả lại đất đang quản lý, sử dụng. Bà Diền phản tố yêu cầu tòa công nhận phần QSDĐ hợp pháp cho mình. Ngày 27/12/2019, TAND tỉnh Đồng Nai ban hành Bản án số 22/2029/DS-ST công nhận bà Diền được quyền quản lý, sử dụng 1.127m2 đất, có nhà; buộc bà Diền thanh toán cho ông Sơn, bà Hải giá trị đất theo giá thị trường hơn 5,1 tỷ đồng. Tuy nhiên, tòa xử thế này là thể hiện phủ nhận hoàn toàn quyền quản lý, sử dụng đất hợp pháp của bà Diền!
Trong khi, theo hồ sơ, dù ở với bà Xàng, bà Hiếu nhưng bà Diền vẫn quản lý sử dụng đất liên tục trước năm 1980 đến ngày tranh chấp năm 2016 (hơn 30 năm). Hơn nữa, diện tích 26.981m2 do ông Sơn, bà Hải đứng tên sổ đỏ là tài sản chung của cha ông để lại. Do đó, bà Diền đương nhiên được hưởng di sản thừa kế phần đất trên theo quy định pháp luật, đồng thời đủ điều kiện để được công nhận QSDĐ vì đã sử dụng ổn định liên tục từ trước năm 1980 đến nay. Việc tòa xử trên, thể hiện tước bỏ quyền hưởng di sản của bà Diền. Việc cấp sổ cho hộ bà Xàng, rồi cấp sổ cho cá nhân bà Hiếu, thừa kế sang tên cho ông Sơn, bà Hải thể hiện một phần đất cấp chủ quyền sử dụng không đúng đối tượng, không đúng trình tự, thủ tục (không làm thủ tục mở thừa kế khi cấp cho bà Xàng và bà Hiếu... ), không thẩm tra, xác minh thực tế sử dụng đất của bà Diền. Rõ ràng đây có dấu hiệu thể hiện chiếm đoạt di sản thừa kế!