Cục Thi hành án dân sự TP Hồ Chí Minh: Viện dẫn nhưng “bỏ sót” nội dung điều luật
Pháp luật - Bạn đọc 25/07/2020 12:00
Tuy nhiên, trả lời báo chí tại sao không chủ động ra quyết định THA, Cục THADS TP Hồ Chí Minh viện dẫn điều luật, nhưng “bỏ sót” nội dung điều luật…
Quy định về chủ động ra quyết định THA
Điều 15, Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014, quy định: “Sửa đổi, bổ sung Điều 36 như sau: “Ra quyết định thi hành án:
“1. Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định THA khi có yêu cầu THA, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này. Thời hạn ra quyết định THA theo yêu cầu là 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu THA.
2. Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền chủ động ra quyết định THA và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án, quyết định sau: a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự.”
Như vậy điều luật trên đây quy định thi hành đối với phần bản án, quyết định sau: a) án phí; b) Trả lại tiền, thì Thủ trưởng cơ quan THADS phải chủ động ra quyết định THA!
Cố tình bỏ sót nội dung điều luật!
Văn bản số 11374/CTHADS-GQKN,TC ngày 16/7/2020 về việc phản hồi thông tin báo chí của Cục THADS TP Hồ Chí Minh, có nội dung (trích):
“Theo nội dung Công văn số 40/CV-BNCT ngày 30/3/2020 của Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi, kèm theo Đơn kêu cứu khẩn cấp ngày 25/3/2020 của ông Đặng Sỹ Ngân, bà Lê Thị Minh Hoa, Báo Người cao tuổi đã phản ánh vụ việc THA giữa ông Đặng Sỹ Ngân, bà Lê Thị Minh Hoa và ông Phạm Hữu Thịnh, bà Nguyễn Thị Kim Yến là “trả lại tiền” nhưng tại sao Chi cục trưởng Chi cục THADS quận Bình Tân không chủ động ban hành Quyết định THA theo quy định điểm b, Khoản1, Điều 36 Luật THADS năm 2008 và điểm b, Khoản 2, Điều 36 Luật THADS đã sửa đổi, bổ sung năm 2014, dẫn đến các đương sự chưa thể thi hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 286/2014/QĐST-DS ngày 18/6/2014 của TAND quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh.
Văn bản của Cục THADS TP Hồ Chí Minh. |
Theo quy định tại điểm b, Khoản 1, Điều 36 Luật THADS năm 2008, cũng như quy định tại điểm b, Khoản 2, Điều 36 Luật THADS đã sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì trường hợp chủ động ra Quyết định THA đối với phần Bản án, Quyết định của Tòa án có tuyên nội dung “Trả lại tiền, tài sản cho đương sự”. Đây là trường hợp Cơ quan THADS chủ động thực hiện việc hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí, tang vật (tài sản) cho đương sự theo đúng nội dung Bản án, Quyết định của Tòa án đã tuyên. Cụ thể, theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 286/2014/QĐST-DS ngày 18/6/2014 của TAND quận Bình Tân thì khoản thuộc diện chủ động ra quyết định THA là khoản hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho ông Phạm Hữu Thịnh và thu án phí của ông Đặng Sỹ Ngân, bà Lê Thị Minh Hoa (Mục 5, Phần II của Quyết định).
Trường hợp này, Chi cục trưởng Chi cục THADS quận Bình Tân đã ban hành Quyết định THA chủ động số 115/QĐ-CCTHA ngày 6/10/2014 cho thi hành khoản: Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí 14.600.000 đồng cho ông Phạm Hữu Thịnh theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 08072 ngày 8/5/2012 của Chi cục THADS quận Bình Tân và Quyết định THA chủ động số 375/QĐ-CCTHA ngày 24/11/2014 cho thi hành khoản: Án phí dân sự sơ thẩm hòa giải thành do ông Đặng Sỹ Ngân và bà Lê Thị Minh Hoa phải chịu là 19.375.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phỉ là 14.250.000 đồng mà bà Hoa đã nộp theo Biên lai thu tiền 04404 ngày 29/4/2014 của Chi cục THADS quận Bình Tân. Ông Ngân, bà Hoa còn phải nộp thêm 5.125.000 đồng.
Đối với các khoản còn lại của Quyết định công nhận thỏa thuận (Mục 1, 2, 3; Phần II của Quyết định) là thuộc diện chỉ ra quyết định THA khi có đơn yêu cầu THA của đương sự theo quy định tại Khoản 1, Điều 36 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014. Trường hợp này, đến ngày 15/3/2017, ông Đặng Sỹ Ngân và bà Lê Thị Minh Hoa mới làm Đơn yêu cầu THA (Công văn đến ngày 17/3/2017), Chi cục trưởng Chi cục THADS quận Bình Tân đã ban hành Quyết định THA theo đơn yêu cầu số 221/QĐ-CCTHADS ngày 21/1/2017 (đến ngày 22/6/2018, được sửa đổi, bổ sung lại thành ngày 21/3/2017).”
Như vậy, Cục THADS TP Hồ Chí Minh viện dẫn: Đối với các khoản còn lại của Quyết định công nhận thỏa thuận (Mục 1, 2, 3; Phần II của Quyết định) là thuộc diện chỉ ra quyết định THA khi có đơn yêu cầu THA của đương sự theo quy định tại Khoản 1, Điều 36 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014”, để công nhận việc Chi cục trưởng Chi cục THADS quận Bình Tân không chủ động ra quyết định THA đối với phần bản án, quyết định là “Trả lại tiền”.
Trong khi, cũng theo quy định tại Khoản 1, Điều 36 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014, còn có thêm nội dung: Trừ trường hợp quy định tại Khoản 2, Điều này. Mà tại Khoản 2 Điều này có quy định: “2. Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền chủ động ra quyết định THA và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án, quyết định sau: a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự.”
Cục THADS TP Hồ Chí Minh giải thích như thế nào về việc viện dẫn điều luật, nhưng lại bỏ sót nội dung, thể hiện dấu hiệu trái pháp luật về THA như thế này?