410 hộ dân có đơn cầu cứu gần 20 năm, bao giờ mới được giải quyết?
Pháp luật - Bạn đọc 28/07/2022 09:23
Theo những người dân ấp 6, 7 (hầu hết là người cao tuổi) xã Nhựt Chánh trình bày với phóng viên game bài đổi thưởng tiền that ngày 21/7/2022, họ đã nhiều lần gửi đơn, đăng kí đối thoại với Chủ tịch UBND tỉnh, nhưng đến nay vẫn chưa nhận được hồi âm, vẫn chưa làm rõ vấn đề theo đơn cầu cứu của các hộ gia đình bị thu hồi đất tại dự án Cụm công nghiệp Nhựt Chánh II.
Nỗi đau mất quyền sử dụng đất
Chỉ tay về căn chòi quây tạm, bà K.V.N cho biết: “Nhà tôi trước cũng khang trang lắm, nay bị cưỡng chế nhà, nên gia đình tôi phải quây tạm cái lán để ở, đồ đạc trong nhà phải để tạm ngoài gốc cây đến giờ hư hỏng hết”.
Còn ông V.T.L chia sẻ: “Họ yêu cầu gia đình tôi kí giấy nhận đền bù, nếu không kí sau này ra Bộ mà nhận. Căn nhà của gia đình tôi, họ cũng cho máy xúc vào giải tỏa, giờ tôi phải ở trong các chòi quây tạm bợ, trời mưa cũng không có chỗ ngả lưng, đến vườn cây kiểng giờ họ cũng bắt tôi phải di dời. Nếu không sẽ cho người vào chặt bỏ, nhưng tôi biết đem đi đâu, khi không còn một mảnh đất “cắm dùi”.
Nhìn cảnh hoang tàn nơi đây, những căn nhà bị đập bỏ, gạch ngổn ngang; những hộ gia đình phải chen chúc trong các lán quây tạm bợ, đồng lúa bỏ hoang, cỏ mọc um tùm, gây tổn thất rất lớn đến tài sản, đời sống của người dân. Ông L bức xúc nói: “Trước đây chúng tôi trồng lúa 3 vụ/năm, nhưng đã gần 20 năm nay chúng tôi không thể trồng trọt được gì.Hơn 100 ha đất bỏ hoang, người đã nhận tiền đền bù không nói, đến những hộ dân chưa nhận đền bù chính quyền cũng cấm không cho máy móc vào, ruộng lúa bỏ hoang, những cánh đồng trồng lác cũng không thể đầu tư canh tác, cỏ mọc um tùm, cho bò thả rông, vịt chạy đồng,… Từ một khu với hàng chục gia đình sinh sống, giờ đây hoang tàn, nhà thì li tán, nhà thì phải lập tạm cái chòi để lấy chỗ “trú thân”…”.
Chỉ tay về căn chòi quây tạm, bà K.V.N chia sẻ bức xúc với phóng viên. |
Có dấu hiệu giao đất trái quy định
Ngày 21/4/2006, ông Lưu Văn Nghĩa và ông Nguyễn Hùng Cường cùng kí Biên bản ghi nhớ số 213/BB-TTPTQĐ, với nội dung: Ghi nhận ý kiến của ông Nguyễn Hùng Cường, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty CP Liên Minh xin được giao toàn bộ quỹ đất 121ha “sau khi Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh triển khai và hoàn tất các công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, thu hồi đất xong” của Dự án Cụm công nghiệp Nhựt Chánh II, với giá 140.000 đồng/m2.
Ngày 22/12/2006, ông Lưu Văn Nghĩa và ông Nguyễn Hùng Cường tiếp tục kí Hợp đồng số 36/HĐ-TTPTQĐ về việc thỏa thuận giao quỹ đất Dự án Cụm công nghiệp Nhựt Chánh II và ngày 8/1/2009, kí Phụ lục số 01 sửa đổi, bổ sung Hợp đồng số 36/HĐ-TTPTQĐ. Theo hợp đồng Công ty CP Liên Minh có tránh nhiệm thanh toán giá trị là 169,4 tỉ đồng để được giao đất và nhận đất sạch, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, sau đó gần 1 năm, ngày 8/10/2007, UBND tỉnh Long An mới ban hành Quyết định số 2561/QĐ-UBND thu hồi 1.207.220m2 đất của 410 hộ gia đình xã Nhựt Chánh, để thực hiện Dự án Xây dựng hạ tầng Dự án Cụm công nghiệp Nhựt Chánh II.
Căn cứ Quyết định số 2561/QĐ-UBND nêu trên, ngày 8/10/2007, UBND huyện Bến Lức ban hành Quyết định “phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đợt I”.
Thế nhưng, toàn bộ quyền sử dụng khu đất của Dự án đã bị ông Lưu Văn Nghĩa, Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Long An chuyển nhượng từ năm 2006 cho Công ty CP Liên Minh.
Nhiều người ở xã Nhựt Chánh thắc mắc:“Tại thời điểm năm 2006,toàn bộ 121ha đất vẫn thuộc quyền sử dụng đất hợp pháp của 410 hộ dân, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Long An, cụ thể là ông Nghĩa lấy đâu ra “quỹ đất” để kí Hợp đồng “giao” cho Công ty CP Liên Minh”?Đây có phảilà dấu hiệu làm trái quy định của Luật Đấtđai khi tại thời điểm cuối năm 2006, Trung tâm Phát triển quỹ đất chưa có quyền sử dụng hợp pháp đối với toàn bộ 121ha đất?Trách nhiệm này thuộc về ông Nghĩa, vậy tại sao đến thời điểm này vẫn chưa bị xử lí?”.
Bán đất “ảo” thu lợi bất chính?
Ngày 8/1/2009, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Long An và Công ty CP Liên Minh kí Phụ lục số 01 sửa đổi và bổ sung Hợp đồng số 36/HĐ-TTPTQĐ. Theo hợp đồng thì Công ty CP Liên Minh có tránh nhiệm thanh toán giá trị là 169,4 tỉ đồng để được giao đất và nhận đất sạch, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.Tuy nhiên, đến cuối tháng 7/2009, Công ty CP Liên Minh mới “trả góp” xong số tiền 169,4 tỉ đồng.
Trong khi đến năm 2017, Công ty CP Liên Minh chưa hoàn thành nghĩa vụ, chưa được giao đất sạch? Vậy lấy đâu ra đất mà Công ty CP Liên Minh “sang tay” cho các doanh nghiệp dưới hình thức kí kết “Hợp đồng hợp tác đầu tư”? Phải chăng Công ty CP Liên Minh “bán ảo” quyền sử dụng đất của 410 hộ dân cho các đối tác nhằm thu lợi bất chính?
Cụ thể: Ngày 5/1/2007, ông Nguyễn Hùng Cường kí Hợp đồng “hợp tác đầu tư”, giao 10ha thuộc Dự ám Cụm công nghiệp Nhựt Chánh II cho Công ty nhựa Hiệp Thành, với giá 220.000 đồng/m2 (chênh lệch 80.000 đồng/m2).
Ngày 17/1/2007, ông Nguyễn Hùng Cường mang 6ha đất kí Hợp đồng “hợp tác đầu tư” với Công ty Liên Hiệp, thu 220.000 đồng/m2.
Ngày 19/3/2007, ông Nguyễn Hùng Cường mang tiếp 400.500m2 (hơn 40ha) kí Hợp đồng “hợp tác đầu tư” Công ty Toàn Thắng, thu 240.000 đồng/m2 (chênh lệch 100.000 đồng/m2)…
Đại diện các hộ dân ấp 6, 7 (nhiều người cao tuổi) xã Nhựt Chánh trình bày sự việc với phóng viên. |
Có thể thấy, tại thời điểm kí Hợp đồng số 36/HĐ-TTPTQĐ ngày 22/12/2006 nói trên và các Hợp đồng “hợp tác đầu tư”, toàn bộ 121ha đất đang thuộc quyền quản lí, sử dụng của 410 hộ dân, cùng với quyền sở hữu tài sản trên đất được pháp luật công nhận và bảo hộ. Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Long An và Công ty CP Liên Minh đều không có quyền sử dụng đất đối với 121ha nên việc kí kết các Hợp đồng nêu trên là có dấu hiệu trái với quy định của pháp luật về đất đai, xây dựng, đầu tư.
Tiếp tục “sang tay” nhiều lần trên “giấy”?
Ngày 12/10/2009, ông Nguyễn Văn Được, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An kí tờ trình giao đất cho Công ty CP Liên Minh. Trong số 1.062.346m2 đất xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp, còn hơn 47.000m2 chưa bồi thường. Phần diện tích bồi thường xong là 1.015.161,8m2, được ông Nguyễn Văn Được kí cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) số BC 131409 ngày 21/5/2010 cho Công ty CP Liên Minh, với thửa đất duy nhất số 1449.
Sau đó, ông Nguyễn Hùng Cường có đơn xin tách thửa đất số 1449 thành 12 thửa. Dù khu đất đang bỏ hoang, chưa đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng ông Nguyễn Văn Được đã chấp nhận yêu cầu của ông Cường, kí cấp cho Công ty CP Liên Minh 12 sổ đỏ gắn với 12 thửa tách ra từ thửa số 1449.
Có trong tay 12 sổ đỏ, ông Nguyễn Hùng Cường tiếp tục kí hàng loạt Hợp đồng “hợp tác góp vốn bằng quyền sử dụng đất” với các doanh nghiệp khác, thực chất là mang quyền sử dụng đất dự án “bán” (lần thứ hai) trên giấy, thu lợi thêm hàng trăm tỉ đồng.
Cụ thể: Từ năm 2011 đến 2015, có 9 doanh nghiệp đã kí Hợp đồng “hợp tác góp vốn bằng quyền sử dụng đất (QSDĐ)”, thực chất bỏ tiền mua đất với tổng diện tích 1.009.708m2, Công ty CP Liên Minh thu lợi thêm khoảng 292 tỉ đồng.
Theo pháp luật về Quy chế quản lí Cụm công nghiệp (Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009), việc Công ty CP Liên Minh thực hiện quyền góp vốn bằng QSDĐ với các đối tác là không phù hợp với Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Nhưng tại Kết luận thanh tra số 5867/KL-UBND ngày 25/9/2020, Chủ tịch UBND tỉnh Trần Văn Cần nêu: Thời điểm này Văn phòng Đăng kí quyền sử dụng đất (ĐKQSDĐ) tỉnh không tiếp cận được Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg, Văn phòng ĐKQSDĐ tỉnh tin tưởng đã bảo đảm pháp lí nên cấp Giấy chứng nhận cho nhà đầu tư thứ cấp(!?) Do áp lực thời gian (!?)
Đại diện các hộ dân thắc mắc: “Phải chăng Văn phòng ĐKQSDĐ tỉnh thiếu nghiệp vụ chuyên môn hay cố tình làm sai? Việc Chủ tịch tỉnh kết luận thanh tra như vậy có thoả đáng?”.
Dự án Cụm công nghiệp Nhựt Chánh II đến nay vẫn là khu đất bỏ hoang thế nhưng Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Long An, Văn phòng ĐKQSDĐ tỉnh, ... liệu có dấu hiệu tiếp tay cho ông Nguyễn Hùng Cường bán quyền sử dụng khu đất dự án 2 lần, thu về hàng trăm tỉ đồng?
Được biết, ngày 2/8/2016, TAND tỉnh Long An thụ lí vụ án tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư giữa 8 doanh nghiệp với Công ty CP Liên Minh và vụ án tranh chấp hợp đồng góp vốn bằng QSDĐ giữa Công ty CP Liên Minh với 4 doanh nghiệp.
Ngân sách nhà nước thất thoát hàng trăm tỉ đồng!
Thu 169 tỉ đồng, chi ngân sách Nhà nước hơn 402 tỉ đồng. Trong nhiều đơn thư gửi lãnh đạo tỉnh Long An và các cơ quan chức năng, đại diện các hộ dân luôn cập nhật con số thiệt hại. Tính đến nay, tỉnh đã xuất chi các khoản lớn như 208.992.316.040 đồng để giải phóng mặt bằng; 93.054.034.835 đồng hỗ trợ tái định cư; 76.634.389.586 đồng hỗ trợ chênh lệch giá đất năm 2007-2008; 24.149.000.000 đồng xây dựng nghĩa trang. Tổng số tiền đã chi cho dự án là 402.829.740.461 đồng cùng nhiều chi phí khác. Trong khi ông Lưu Văn Nghĩa thu về cho tỉnh chỉ 169.011.080.000 đồng, dẫn đến thiệt hại cho ngân sách ít nhất 233 tỉ đồng và con số này vẫn chưa dừng lại.
Không chỉ ngân sách bị thiệt hại, 410 hộ dân cũng chịu nhiều tổn thất về tài sản khi bị thu hồi đất làm dự án rồi bỏ hoang. Trong hơn 121ha đất, có 93,5ha là đất nông nghiệp màu mỡ, sản xuất 3 vụ lúa, cho năng suất khoảng 21 tấn/năm. Còn lại 27,5 ha là đất ở và phi nông nghiệp, các hộ dân buôn bán, chăn nuôi, trồng trọt, làm nghề tiểu thủ công... với thu nhập 15 triệu đồng/năm. Tổng thiệt hại mà 410 hộ dân phải gánh chịu trong gần 15 năm ước tính 251 tỉ đồng.
Ông Lưu Văn Nghĩa lộ rõ hành vi cấu kết với ông Nguyễn Hùng Cường để giao QSDĐ cho Công ty CP Liên Minh không thông qua đấu giá, thể hiện dấu hiệu làm trái quy định pháp luật. Dự án Cụm công nghiệp Nhựt Chánh II sau gần 20 năm triển khai vẫn là bãi đất trống, bỏ hoang gây lãng phí khủng khiếp về nguồn tài nguyên đất. Ông Lưu Văn Nghĩa có dấu hiệu cố ý làm trái, chiếm đoạt 121ha, tài sản trên đất của 410 hộ dân rồi “hợp thức hóa”, làm thất thoát ngân sách Nhà nước trên 233 tỉ đồng và tài sản kinh tế của 410 hộ dân.
Tại Kết luận thanh tra số 5867/KL-UBND ngày 25/9/2020, Chủ tịch UBND tỉnh Long An chỉ ra nhiều vướng mắc, tồn tại đồng thời quy trách nhiệm về nhiều cơ quan, đơn vị: Sở Tài nguyên và Môi trường Long An cùng các đơn vị trực thuộc: Trung tâm Phát triển quỹ đất, Văn phòng ĐKQSDĐ; UBND huyện Bến Lức... Tuy nhiên, việc gây thất thoát, lãng phí hàng trăm tỉ đồng từ dự án, trách nhiệm thuộc về tổ chức, cá nhân nào vẫn chưa được làm rõ, và chưa bị xử lí theo quy định pháp luật.
Trách nhiệm thuộc về ai?
“Đến thời điểm hiện tại, Dự án chỉ mới có tên trong quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Long An đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 được UBND tỉnh Long An phê duyệt, chứ chưa có quyết định thành lập cụm công nghiệp. Để xảy ra tình trạng thất thoát hàng trăm tỉ đồng ngân sách Nhà nước, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của 410 hộ dân, cho thấy trách nhiệm này thuộc về Sở Công Thương, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, các sở, ngành khác với vai trò phối hợp; Trung tâm Phát triển Quỹ đất tỉnh, UBND huyện Bến Lức; Văn phòng ĐKQSDĐ tỉnh; Công ty CP Liên Minh,...” (trích Kết luận thanh tra của tỉnh Long An số 5867/KL-UBND ngày 25/9/2020). Tuy nhiên cho đến nay, dư luận người dân địa phương cho rằng, sự việc vẫn chưa được làm rõ, các tổ chức, cá nhân có liên quan vẫn chưa bị xử lí theo quy định của pháp luật.
Nguyện vọng của người cao tuổi
Trên tinh thần cầu thị, các hộ dân luôn tin tưởng và mong muốn Đảng và Nhà nước, các cơ quan Trung ương nhanh chóng tiến hành xem xét và giải quyết những tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật nhằm đem lại sự công bằng, dân chủ, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người dân tại dự án Cụm công nghiệp Nhựt Chánh II.
Các hộ dân nêu yêu cầu:
Một: Chủ tịch UBND tỉnh xem xét, tổ chức đối thoại giải quyết đơn tố cáo của người dân theo trình tự giải quyết về khiếu nại, tố cáo.
Hai: Làm rõ các vấn đề sai phạm của Sở Công Thương, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, các sở, ngành khác với vai trò phối hợp; Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh, UBND huyện Bến Lức; Văn phòng ĐKQSDĐ đất tỉnh; Công ty CP Liên Minh; các ông Lưu Văn Nghĩa, ôngNguyễn Hùng Cường, ông Nguyễn Văn Được và các cá nhân liên quan trong quá trình phê duyệt, triển khai, thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng tại Dự án Cụm công nghiệp Nhựt Chánh II.
Ba: Chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra nếu thấy có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quản lí đất đai.
Bốn: Giải quyết đền bù thoả đáng lợi ích cho người dân hoặc thu hồi các quyết định thu hồi đất của các hộ dân.
Năm: Làm rõ về dấu hiệu “lợi ích nhóm” xảy ra tại một số bộ phận cơ quan có thẩm quyền trong việc phê duyệt dự án, ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường giải phóng mặt bằng có dấu hiệu trái pháp luật; chậm trễ trong việc thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; chưa kịp thời ngăn chặn các hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến việc thu hồi và giao đất của các hộ dân bị ảnh hưởng bởi dự án.