Tỉnh Đồng Nai: Nhiều cơ sở để nguyên đơn kháng cáo bổ sung đối với bản án của TAND huyện Long Thành!
Đơn thư bạn đọc 23/10/2020 08:05
Trang 1 |
Trang 2 |
Thông Báo về việc kháng cáo số 26/TB-TA ngày 18/5/2020 của TAND huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. |
Trang 1 |
Trang 2 |
Thông báo về việc thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm số 162/2020/TBTL-TA ngày 10/7/2020 của TAND tỉnh Đồng Nai.
|
Những lí do kháng cáo
Ông Lai Văn Tỏ, sinh năm 1950, thường trú số 1, Quốc lộ 51, ấp 4, xã Long An, huyện Long Thành, là bị đơn trong vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, với nguyên đơn: Ông Lưu Văn Khang. Bản án số 08/2020/DS-ST của TAND huyện Long Thành, tuyên xử: “Buộc ông Tỏ trả lại đất 914,7m2 thửa 29, tờ bản đồ số 11, xã Long An cho ông Khang; sau khi trừ khoản tiền ông Khang phải thanh toán lại cho ông Tỏ là 1.058.620.000 đồng, thì ông Tỏ còn phải thanh toán cho ông Khang 5.011.380.000 đồng”.
game bài đổi thưởng tiền that ngày 22/8/2020 và ngày 25/8/2020 đăng bài: Về xét xử vụ án dân sự ở huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai: Viện KSND kháng nghị là có cơ sở! Ngày 12/5/2020, ông Tỏ kháng cáo toàn bộ bản án Dân sự sơ thẩm nêu trên; và nay có Đơn kháng cáo (Bổ sung) như sau:
Một: Khoảng tháng 8/1993, cha, mẹ ông Tỏ là cụ Lai Văn Thôi, cụ Lê Thị Tươi (chết ngày 28/5/2013), chuyển nhượng cho ông Trương Vĩnh 40.614m2 đất lúa một vụ (lúa mùa), giáp ranh đất của ông Tỏ, bà Bé với giá là 117 lượng vàng SJC (ông Trương Vĩnh giao trực tiếp cho ông Tỏ tại nhà ông Tỏ ở khu Phước Thuận, khu vực Cầu Xéo, thị trấn Long Thành, huyện Long Thành), do cụ Thôi tuổi già mắt kém không kiểm đếm được.
Hai: Ông Trương Vĩnh chuyển nhượng 480m2 đất cho cho vợ chồng ông Tỏ, bà Bé với giá 20 lượng vàng SJC; ông Tỏ sử dụng vàng này cất nhà để kinh doanh từ ngày 3/3/1995 đến nay. Phần đất nầy liền kề với phần đất ông Tỏ được hưởng di sản thừa kế của mẹ cho tặng, đã được cấp GCNQSDĐ, QSHNO và tài sản khác gắn liền với đất 467,1m2 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp cho ông Tỏ, Số vào sổ cấp GCN: CS 07511 (Số bìa sổ đỏ CĐ 191117) ngày 23/6/2016.
Biên nhận ngày 3/3/1995 của ông Trương Vĩnh nhận của ông Lai Văn Tỏ và bà Võ Thị Bé 20 lượng vàng SJC cho việc chuyển nhượng lại đất ngang 6m x 80m (BL 68).
|
Ba: Việc ông Trương Vĩnh chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mẹ ông Tỏ giá 117 lượng vàng SJC (thực tế), ông Vĩnh chuyển lại 2 ông Khang và ông Ngư 220 lượng vàng SJC là có sự mua bán chuyển nhượng, chứ không phải ông Vĩnh làm “dịch vụ” hay mua giùm đất cho ông Khang như Văn bản của Công an huyện Long Thành xác nhận có việc chuyển nhượng nhưng không làm rõ. Nhưng TAND huyện Long Thành chưa điều tra xác minh làm rõ việc chuyển nhượng này, là thiếu sót, thể hiện gây “oan sai” cho gia đình ông Tỏ, mà cấp xét xử phúc thẩm không thể điều tra, xác minh làm rõ được !
Bốn: Ông Ngư và ông Khang không phải “hộ nông nghiệp”, chuyển nhượng nhưng không sử dụng, không xây dựng cơ sở sản xuất như ý kiến chấp thuận chuyển nhượng của UBND tỉnh Đồng Nai! Có dấu hiệu thu mua đất để đầu tư chờ trượt giá! Nên từ năm 1994 đến năm 2004, không biết giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nằm ở đâu ?!
Do không phải là “hộ nông nghiệp”, nên ông Ngư và ông Khang không hề sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích “tăng gia sản xuất” theo chủ trương của Nhà nước trong suốt hàng chục. Thậm chí không biết GCNQSDĐ do UBND Huyện Long Thành cấp ngày 2/2/1996, cho hai ông này là hơn 4 mẫu đất nằm ở đâu do ai quản lí, sử dụng! Đến ngày 18/11/2005, ông Khang có Đơn gửi Cơ quan CSĐT Công an huyện Long Thành, khiếu nại việc ông Trương Vĩnh đã nhận thay 2 GCNQSDĐ của hai ông Ngư và Khang, nhưng đã “giữ giùm” không đưa lại cho 2 ông. Nếu cho là ông Vĩnh “lừa đảo” chiếm đoạt 2 sổ đỏ thì từ năm 1996 đến nay (2020), 24 năm qua không hề phát hiện ông Vĩnh đã cầm cố, thế chấp cho ai ? Không biết ông Ngư , ông Khang trả tiền vàng đủ cho ông Trương Vĩnh hay chưa, nên ông không đưa GCNQSDĐ? Có điều ngẫu nhiên là tháng 12/2005, Cơ quan CSĐT Công an huyện Long Thành điều tra vụ ông Trương Vĩnh giấu 2 chủ quyền đất của 2 ông nầy, nhưng đến ngày 25/3/2006 (3 tháng sau thì ông Vĩnh chết). Giấy chứng tử của ông Trương Vĩnh lại do người của ông Khang cung cấp TAND huyện Long Thành. Tuy nhiên không biết vì động cơ gì, mà cấp tòa án sơ thẩm không làm rõ những khuất tất này, mà tuyên buộc ông Tỏ phải trả lại 914,7m2 cho ông Khang là thể hiện không khách quan, thể hiện trái pháp luật về quản lý đất đai!
Cấp GCNQSDĐ nông nghiệp cho Việt kiều đang định cư ở nước ngoài
Theo Luật Đất đai năm 1993, năm 2003 và năm 2013, Nhà nước ta không có chủ trương cấp GCNQSDĐ nông nghiệp cho Việt kiều định cư ở nước ngoài. Nhưng thời điểm xin cấp đổi lại GCNQSDĐ nông nghiệp, thì ông Lưu Văn Khang là Việt kiều Úc đang định cư tại nước ngoài.
Trang 1 |
Văn bản số 25/CV-MT ngày 5/2/2007 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Long Thành, có nội dung xác định ông Lưu Văn Khang là Việt kiều Úc đang định cư tại nước ngoài |
Tháng 8/1993, mẹ ông Tỏ chuyển nhượng toàn bộ 40.614m2 đất cho ông Trương Vĩnh. Đến ngày 3/3/1995, vợ chồng ông Tỏ chuyển nhượng 480m2 đất của ông Trương Vĩnh. Đến ngày 2/4/1996, UBND huyện Long Thành cấp GCNQSDĐ cho ông Lưu Ngư và ông Lưu Văn Khang có cả phần diện tích 480m2 đất của ông Tỏ, là thể hiện trái pháp luật.
Và ngày 8/2/2010 UBND huyện Long Thành cấp đổi toàn bộ diện tích 20.054m2 đất cho ông Lưu Văn Khang là Việt kiều Úc, nhưng ông Khang đứng tên quyền sử dụng đất nông nghiệp cũng là thể hiện trái pháp luật.
Trước khi xét xử sơ thẩm, TAND huyện Long Thành không có Văn bản đề nghị Sở Tài nguyên và Môi trường (trước đây là Sở Địa chính – Nhà đất TP Hồ Chí Minh) trả lời rằng trước khi đi xuất cảnh ông Lưu Văn Khang có khai trình là không còn làm chủ “bất động sản” tại Việt Nam hay không ? Có Văn bản gửi Cục Quản lý xuất nhập cảnh (Bộ Công an) hoặc Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định về thời gian xuất cảnh, nhập cảnh quá trình định cư Nước ngoài của ông Lưu Văn Khang, để làm rõ việc UBND huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cấp GCNQSDĐ cho ông Lưu Văn Khang ngày 2/4/1996; và cấp đổi GCNQSDĐ vào ngày 8/2/2010 cho ông Khang đứng 23 GCNQSDĐ… là có đúng quy trình và có đúng quy định của pháp luật về quản lý đất đai không ?
Cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp cho ông Lưu Văn Khang ngày 8/2/2010 (có 23 giấy) do UBND huyện Long Thành cấp cho ông Lưu Văn Khang; và ngày 8/5/2017 ông Khang đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho bà Nguyễn Thị Mộng Thu, cụ thể như sau:
1/- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BB 289634 do UBND huyện Long Thành cấp cùng ngày 8/2/2010. Số vào sổ cấp GCNQSDĐ số 06111; số BB 289269. 2/- Số BB 286269 số vào sổ 0609; 3/- Số BB 289268 Số vào sổ 06094; 4/- Số BB 289267 số vào sổ 06115 (BL 21); 5/- Số BB 289266 số vào sổ 06096; 6/- Số 289265 số vào sổ 06097; 7/- Số BB289264 Số vào sổ 06100; 8/- Số BB 289263 số vào sổ 06098; 9/- Số 289262 số vào sổ 06116 (BL 39); 10/- BB 289261 Số vào sổ 06099 (BL 28); 11/- Số BB 289260 số vào sổ 06101; 12/- Số 289259 số vào sổ 06102; 13/- Số BB 289258 số vào sổ 06103; 14/- Số BB 289257 số vào sổ 06104; 15/- Số BB 289256 số vào sổ 06106; 16/- Số BB 289254 số vào sổ 06105; 17/- Số 289253 số vào sổ 06107; 18/- Số BB 289252. Số vào sổ 06108; 19/- Số BB 289251 số vào sổ 06113 (BL 35); 20/- BB số 289250 số vào sổ 06114 (BL 31); 21/- Số BB 289249 số vào sổ 06109; 22/- Số BB 289248 số vào sổ 06110; 23/- Số BB 289247 số vào sổ 06112 (BL 25).
Trang 1 |
Một trong 23 giấy chứng nhận QSDĐ, UBND huyện Long Thành cấp cho ông Lưu Văn Khang ngày 08/02/2010 (BL từ 18 đến số 39). |
Tuy nhiên, do không có nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp, ngày 9/1/2017, ông Lưu Văn Khang đã lập Hợp đồng ủy quyền cho ông Tạ Văn Thành, sinh năm 1965. Thường trú số 02 Trần Thiện Chánh, phường 12, quận 10, TP Hồ Chí Minh toàn quyền định đoạt, chuyển nhượng mua bán, tranh chấp… đối với 23 GCNQSDĐ, QSHNO và tài sản khác gắn liền với đất do Phòng Công chứng số 4 tỉnh Đồng Nai chứng nhận.
Ông Tỏ bức xúc: “Vì những lẽ nêu trên, nay tôi kính đơn nầy đến quý cơ quan có thẩm quyền để kháng cáo (Bổ sung) đối với toàn bộ Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 8/5/2020 của TAND huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Vì xét xử là không khách quan, có nhiều vi phạm tố tụng; và đã có Quyết định kháng nghị Số 91/QĐ-KNPT-DS ngày 22/5/2020 của Viện KSND huyện Long Thành theo hướng hủy toàn bộ án sơ thẩm.
Tôi xin nói rõ thêm: Có nhiều vi phạm về lĩnh vực quản lý đất đai của UBND huyện Long Thành đã cấp GCNQSDĐ bao gồm cả phần diện tích 480m2 đất mà chúng tôi đã nhận chuyển nhượng của ông Trương Vĩnh từ ngày 3/3/1995. Và việc ngày 2/4/1996, cấp GCNQSDĐ cho ông Lưu Ngư và ông Lưu Văn Khang hơn 4 mẫu đất nông nghiệp, trong khi hai ông này không phải là hộ nông nghiệp, mà đã có hành vi thể hiện sự “lừa đối” UBND tỉnh Đồng Nai và các cơ quan chức năng, rằng nhận chuyển nhượng QSDĐ với mục đích xây dựng cơ sở sản xuất nông nghiệp. Nhưng thực tế không có nhu cầu sử dụng đất và đã không sử dụng đất, mà chỉ đem sang nhượng, kinh doanh sinh lợi trên đất nông nghiệp ? Ngoài ra, Một số cán bộ của UBND huyện Long Thành có hành vi thể hiện vi phạm pháp luật về lĩnh vực quản lý đất đai: Cấp 23 GCNQSDĐ nông nghiệp cho Việt kiều đang định cư ở nước ngoài, mà cấp xét xử sơ thẩm chưa làm rõ; và cấp xét xử dân sự phúc thẩm không thể điều tra, xác minh được. Tôi kính đề nghị quý Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp thuận toàn bộ đơn kháng cáo của chúng tôi xét xử theo trình tự dân sự phúc thẩm; đồng thời xét xử theo hướng hủy toàn bộ Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 8/5/2020 của TAND huyện Long Thành; trả hồ sơ về TAND huyện Long Thành xét xử theo thủ tục chung, tránh “oan sai” cho gia đình tôi”.
Trang 1 |
Trang 2 |
Trang 3 |
Bản án số 08/2020/DS-ST ngày 8/5/2020 của TAND huyện Long Thành. |
Trang 1 |
Trang 4 |
Trang 5 |
Quyết định Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm số 91/QĐ/KNPT-DS ngày 22/5/2020 của Viện KSND huyện Long Thành. |