Sự thiếu khách quan và mâu thuẫn trong quyết định của một bản án
Pháp luật - Bạn đọc 16/08/2020 15:39
Đó là tình cảnh éo le mà vợ chồng ông Huỳnh Tấn Khanh, bà Trà Thị Ngọc Điệp, trú tại ấp Vườn Xoài, xã Thuận Nghĩa Hòa, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An vấp phải. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Năm 2002, vợ chồng ông Huỳnh Văn Máy, bà Nguyễn Thị Năm mua của vợ chồng bà Bùi Thị Lệ Hồng 51.889m2 đất lúa, thửa số 34, tọa lạc ấp 2, xã Long Thạnh, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Hợp đồng chuyển nhượng được UBND xã Long Thạnh chứng thực. Sau đó bà Năm làm hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), thì bị trả lại do vượt quá hạn điền (theo Luật Đất đai năm 1993). Đến ngày 25/4/2002, bà Năm kí lại hợp đồng với bà Hồng, theo đó bà Năm đứng tên một phần, diện tích 26.388,72m2. Phần còn lại đứng tên ông Khanh. Thế nhưng phần đất đứng tên ông Khanh cũng vẫn bị trả hồ sơ do vượt quá hạn điền.
Đến năm 2013, ông Máy tiếp tục làm hồ sơ phần đất mang tên ông Khanh. Ngày 8/1/2014, UBND huyện Thủ Thừa cấp sổ đỏ thửa đất số 118, tờ bản đồ số 7, thuộc ấp 2, xã Long Thành, diện tích 25.186m2, mang tên ông Huỳnh Tấn Khanh. Sổ đỏ này ông Máy đem về nhà cất đi. Năm 2017, ông Khanh cần tiền để làm ăn, về nhà nói bố mẹ đưa sổ đỏ mang tên mình, để thế chấp ngân hàng vay tiền, nhưng ông Máy và bà Năm bảo sổ đỏ đó đã bị mất. Ông Khanh làm đơn trình báo mất sổ đỏ, được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp lại sổ đỏ vào ngày 17/1/2018. Đến ngày 25/7/2018, vợ chồng ông Khanh, bà Điệp chuyển nhượng thửa đất số 118 cho vợ chồng ông Lê Văn Nết, bà Đặng Thị Ngọc Phượng, được Văn phòng công chứng Thủ Thừa chứng thực.
Đến ngày 3/8/2018, ông Máy làm đơn khởi kiện ra TAND huyện Thủ Thừa, với những yêu cầu: xác định thửa đất số 118 thuộc quyền sở hữu của ông Máy; Hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Khanh và bà Hồng; Hủy sổ đỏ thửa đất số 118 cấp ngày 17/1/2018 cho ông Khanh; Hủy hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 118 giữa vợ chồng ông Khanh, bà Điệp với vợ chồng ông Nết, bà Phượng.
Bản án sơ thẩm số 112/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 của TAND huyện Thủ Thừa tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn Máy: Xác định thửa đất số 118 thuộc quyền sử dụng của ông Huỳnh Văn Máy và bà Nguyễn Thị Năm; Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Khanh và bà Hồng được UBND xã Long Thạnh chứng thực ngày 25/4/2002 vô hiệu; Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 118 giữa vợ chồng ông Khanh, bà Điệp với vợ chồng ông Nết, bà Phượng vô hiệu…
Bản án số 190/2020/DS-ST của TAND tỉnh Long An, với những mâu thuẫn trong phần quyết định |
Bản án bị kháng cáo. Ngày 17/6/2020, TAND tỉnh Long An đưa vụ án ra xét xử. Tại Bản tự khai, Biên bản làm việc, các bút lục trước phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, ông Máy, bà Năm đều thừa nhận có cho ông Khanh đất, nhưng Tòa án hai cấp đều không xác định được là thửa đất nào? Trong các lời khai tại phiên Tòa, ông Máy, bà Năm khai đã cho ông Khanh một thửa đất có diện tích 29.222m2, tọa lạc tại ấp Đồn A, xã Thuận Bình, huyện Thạnh Hóa, nhưng thửa đất đó lại do vợ chồng ông Khanh, bà Điệp sử dụng tiền dành dụm của vợ chồng và vàng do hai bên cha mẹ cho trong ngày cưới, để mua của ông Võ Văn Thi, bà Đặng Thị Cảnh, với tổng số tiền 30 triệu đồng, được UBND xã Thuận Bình chứng thực ngày 2/3/2003. Bằng chứng về số vàng hai gia đình cho (4 cây 5 chỉ vàng 24K), được lập thành Vi bằng số 67/2020/ViB-TPL.LA, do Văn phòng thừa phát lại Long An lập ngày 6/6/2020, với các nhân chứng: bà Phạm Thị Tuyết, bà Lê Thị Bích Thuận, bà Nguyễn Thị Nem. Thế nhưng, bằng chứng này không được HĐXX cấp phúc thẩm xem xét.
Mặt khác, ông Khanh sống cùng ông Máy, bà Năm đến năm 2019 mới ra ở riêng. Ngay cả khi ông Khanh kết hôn với bà Điệp, nhưng vẫn sống chung với ông Máy, bà Năm. Trong quá trình sống chung, ông Khanh (và sau là vợ chồng ông Khanh, bà Điệp) đều góp công sức gây dựng khối tài sản của gia đình, trong đó có cả việc trồng tràm trên thửa đất số 118. Ông Khanh chứng minh việc này bằng Vi bằng số 77/2020/ViB-TPL.LA, do Văn phòng thừa phát lại Long An lập ngày 12/6/2020, với nhân chứng là ông Võ Văn Quắn, người từng là Phó Trưởng ấp. Xét vì lẽ thường, vợ chồng ông Khanh, bà Điệp phải được hưởng một phần tài sản của gia đình mới tương xứng. Ông Khanh có nộp cho Tòa Vi bằng số 77/2020/ViB-TPL.LA, nhưng bằng chứng này cũng không được xem xét.
Ông Máy, bà Năm cho rằng, chỉ nhờ ông Khanh đứng tên thửa đất giúp cho họ. Nhưng lời trình bày này không đúng sự thật, do tại thời điểm đăng kí quyền sử dụng đất, Luật Đất đai năm 2003 cho phép được đăng kí vượt hạn điền, nên ông Máy, bà Năm không nhất thiết phải nhờ ông Khanh đứng tên thửa đất giúp. Ông Máy, bà Năm có toàn quyền đăng kí xác lập quyền sử dụng đất, hoặc nhờ những người con khác đứng tên. Điều này cho thấy, ông Máy, bà Năm từng có ý chí cho ông Khanh thửa đất số 118, mới nhất quyết để ông Khanh đứng tên thửa đất. Nếu khai chỉ nhờ ông Khanh đứng tên, thì đây là sự vô lí, nhưng không được hai cấp Tòa xem xét. Ông Máy, bà Năm là người hiểu biết pháp luật, không thể không yêu cầu ông Khanh viết giấy xác nhận đứng tên giúp, để làm bằng chứng nếu có tranh chấp, nhưng lại vẫn để ông Khanh kí Hợp đồng chuyển nhượng với bà Hồng. Điều này (ông Khanh còn nhiều chứng cứ khác) chứng minh, đây chính là thửa đất mà ông Máy, bà Năm khai tại Tòa là cho ông Khanh.
Những vi bằng, là bằng chứng được nộp cho Tòa, nhưng không được xem xét khi xét xử
|
Điều lạ, Bản án số 190/2020/DS-PT ngày 17/6/2020, tại phần Quyết định thể hiện sự mâu thuẫn. Quyết định của Bản án ghi tại Điều 1: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn Máy… Buộc ông Khanh và bà Điệp, ông Nết và bà Phượng phải liên đới trả cho ông Máy và bà Năm thửa đất 118 nói trên theo quy định của pháp luật về đất đai”.
Nhưng Điều 2 lại: “Không chấp nhận Yêu cầu khởi kiện của ông Máy về việc tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất… diện tích 25.186m2, nay là thửa đất số 118… tọa lạc tại ấp 2, xã Long Thành… do UBND xã Long Thạnh chứng thực ngày 25/4/2002 là vô hiệu”.
Điều 3 thì: “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Máy, về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng… xác lập giữa ông Khanh, bà Điệp với ông Nết, bà Phượng nhận thửa đất số 118… do Văn phòng công chứng Thủ Thừa công chứng ngày 25/7/2018 là vô hiệu”.
Điều 4: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Máy, về việc yêu cầu hủy sổ đỏ số BQ 290594… do UBND huyện Thủ Thừa cấp cho ông Khanh Ngày 8/1/2014. Kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cập nhật chỉnh lí biến động từ ông Khanh sang ông Máy…”.
Điều 5: “Buộc ông Khanh phải nộp lại sổ đỏ số CM 406454 cấp ngày 17/1/2018, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Khanh ngày 17/1/2018. Kiến nghị Sở Tài nguyên và Môi trường thu hồi sổ đỏ số CM 406454 cấp ngày 17/1/2018 cho ông Khanh thửa đất số 118 nói trên…”.
Như vậy phần Quyết định của Bản án phúc thẩm, tại Điều 1 mâu thuẫn với Điều 2, bởi sự đối lập. Tại Điều 2 Tòa công nhận Hợp đồng giữa ông Khanh và bà Hồng không vô hiệu, thì mặc nhiên thửa đất số 118 phải của ông Khanh, chứ không phải của ông Máy, bà Năm. Do đó lại mâu thuẫn với Điều 3, khi tuyên Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 118 giữa ông Khanh, bà Điệp với ông Nết, bà Phượng là vô hiệu. Điều 3 chấp nhận yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 118, giữa vợ chồng ông Khanh với vợ chồng ông Nết là vô hiệu, nhưng Điều 4 lại không chấp nhận yêu cầu của ông Máy về việc hủy sổ đỏ số BQ29594, do UBND huyện Thủ Thừa cấp cho ông Khanh ngày 8/1/2014… Như vậy là mâu thuẫn. Khi quyền của ông Khanh tại thửa đất số 118 vẫn còn, sao Tòa lại tước đoạt quyền chuyển nhượng thửa đất đó cho người khác!? Vấn đề nữa, nếu công nhận cho ông Khanh, thì sao lại kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cập nhật chính lí biến động sổ đỏ số BQ 290594, từ ông Huỳnh Tấn Khanh sang ông Huỳnh Văn Máy!?
Vì vậy, ông Khanh làm Đơn đề nghị Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng Viện KSND Tối cao; Chánh án TAND Cấp cao, Viện trưởng Viện KSND Cấp cao ban hành kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy Bản án phúc thẩm số 190/2020/DS-PT ngày 17/6/2020 của TAND tỉnh Long An. Hi vọng ý nguyện của ông Khanh được đáp ứng.