Nhiều căn cứ để người cao tuổi đề nghị được xem xét vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm
Pháp luật - Bạn đọc 07/03/2024 15:38
Ngày 15/11/2023, TAND tỉnh Quảng Ninh đưa vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là ông Trần Tuấn Dương, bà Nguyễn Thị Thanh Huấn và bị đơn là ông Vũ Văn Quyền, bà Lê Thị Dung ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên toà phúc thẩm, HĐXX tuyên xử: Đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc ông Vũ Ngọc Sánh và ông Trần Tuấn Dương phải trả lại quyền sử dụng đất 115,9m2 tại tổ 8, khu 5A phường Cẩm Trung cho ông Vũ Văn Quyền và bà Lê Thị Dung; Buộc UBND TP Cẩm Phả hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số: X030210, số vào sổ 92/QSDĐ ngày 14/3/2003 mang tên Vũ Ngọc Sánh đã chuyển nhượng cho ông Trần Tuấn Dương năm 2005.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Tuấn Dương, bà Nguyễn Thị Thanh Huấn đối với bà Lê Thị Dung và anh Vũ Văn Giáp, anh Vũ Ngọc Linh, chị Vũ Thị Lộc và anh Vũ Ngọc Quý (người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Vũ Văn Quyền).
Trụ sở Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng Ninh |
Bà Lê Thị Dung và anh Vũ Văn Giáp, anh Vũ Ngọc Linh, chị Vũ Thị Lộc và anh Vũ Ngọc Quý phải có nghĩa vụ trả lại quyền sử dụng đất 112,4m2 cho nguyên đơn ông Trần Tuấn Dương và bà Nguyễn Thị Thanh Huấn, theo hiện trạng được công nhận tại GCNQSDĐ số: X030210, số vào sổ 92/QSDĐ ngày 14/3/2003 mang tên Vũ Ngọc Sánh, ngày 1/6/2005 được Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã (nay là thành phố) Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, đăng kí quyền sử dụng đất mang tên Trần Tuấn Dương.
Bà Lê Thị Dung và anh Vũ Văn Giáp, anh Vũ Ngọc Linh, chị Vũ Thị Lộc và anh Vũ Ngọc Quý có nghĩa vụ tháo dỡ công trình xây dựng trên thửa đất số 227 tại tổ 8, khu 5A phường Cẩm Trung, TP Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh gồm: 1 căn nhà cấp 4 xây dựng gạch ba banh, lợp mái tôn lạnh, đất nền gạch men và công trình phụ khép kín; Giao cho ông Trần Tuấn Dương và bà Nguyễn Thị Thanh Huấn sử dụng bức tường bao gạch xi phía Bắc (cạnh 1-2) và phía đông (cạnh 2-3) và có trách nhiệm thanh toán cho bị đơn số tiền 3.232.815 đồng.
Bà Lê Thị Dung cho biết: “Trong quá trình giải quyết vụ án tại Toà các cấp thể hiện rõ không có việc chuyển nhượng giữa vợ chồng tôi và vợ chồng ông Vũ Ngọc Sánh. Chữ kí của tôi tại “Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất” đề ngày 23/6/2020 không phải do tôi kí thể hiện tại Kết luận giám định số: 229/KL GĐKTHS (P11) ngày 27/9/2023 của phòng Kĩ thuật hình sự, Bộ Quốc Phòng. Ngoài ra chữ kí giáp ranh trong hồ sơ cấp GCNQSDĐ cho ông Vũ Ngọc Sánh là không đúng, việc này thể hiện rõ qua lời khai của người làm chứng là ông Vũ Văn Khôi và ông Quách Đình Sơn.
Mặc dù có nhiều căn cứ thể hiện yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là thiếu cơ sở chấp nhận, nhưng Toà án các cấp vẫn chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình tôi. Sau khi nhận được bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Quảng Ninh, tôi đã có đơn kiến nghị tới TAND Cấp cao tại Hà Nội để được xem xét vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm”.
Nhận định của luật sư trong vụ án
Dưới góc độ pháp lí, TS. Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng Luật sư Chính Pháp, Đoàn Luật sư TP Hà Nội, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho gia đình bà Lê Thị Dung cho biết:
Thứ nhất, không có tài liệu thể hiện việc mua bán, chuyển nhượng đất giữa ông Vũ Văn Quyền, bà Lê Thị Dung cho ông Vũ Ngọc Sánh năm 1987. Theo lời khai của ông Vũ Ngọc Sánh thể hiện việc ông mua đất của ông Quyền, bà Dung năm 1987, với giá 1.600.000 đồng. Trong đó, ông Sánh đã trả 600.000 đồng tiền mặt và 1.000.000 đồng bằng vật liệu xây dựng (có giấy viết tay do ông Bùi Quang Đán viết và làm chứng). Tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông Sánh không cung cấp được giấy tờ mua bán viết tay từ năm 1987. Thậm chí trong quá trình thu thập tài liệu vụ án, Toà các cấp cũng không thu thập được Giấy mua bán viết tay này. Ngoài ra, Công văn số 846: VPĐK ngày 26/10/2011 của Văn phòng Đăng kí quyền sử dụng đất cũng thể hiện kho lưu trữ của Văn phòng không tìm thấy Giấy mua bán, chuyển nhượng viết tay giữa ông Vũ Ngọc Sánh và ông Vũ Văn Quyền, bà Lê Thị Dung. Bên cạnh đó, ông Sánh cũng không chứng minh được việc ông đã giao tiền cho ông Quyền, bà Dung.
Thứ hai, việc chuyển nhượng đất giữa ông Vũ Văn Quyền, bà Lê Thị Dung và ông Vũ Ngọc Sánh thể hiện tại Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/6/2020 là không có hiệu lực pháp luật khi có dấu hiệu giả mạo chữ kí của bà Dung và không có việc nhận tiền chuyển nhượng như thực tế. Có thể thấy, căn cứ để UBND TP Cẩm Phả cấp GCNQSDĐ ngày 14/3/2003 cho ông Vũ Ngọc Sánh với thửa đất số 227, diện tích 115,9m2 tại tổ 8, phường Cẩm Trung là “Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 23/6/2000, có xác nhận của UBND phường Cẩm Trung. Do đó, cần xem xét tính hợp pháp của Hợp đồng chuyển nhượng này theo quy định Bộ luật Dân sự.
Bên cạnh đó, Kết luận giám định số: 229/KL-GĐKTHS (P11) ngày 27/9/2023 của Phòng Kĩ thuật hình sự, Bộ Quốc phòng thể hiện rõ: Chữ viết Dung dưới chữ “Vợ” tại mục Bên chuyển nhượng trên Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất đề ngày 23/6/2000 với chữ mẫu so sánh ghi của bà Lê Thị Dung trên các tài liêu kí hiệu M7, M13, M14 và M15 không cùng một người kí.
Thứ ba, không có tài liệu, chứng cứ chứng minh thể hiện việc thanh toán chuyển nhượng đất trên thực tế. “Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 23/6/2000 thể hiện giá chuyển nhượng là 8.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông Quyền, bà Dung khẳng định, chưa bao giờ nhận số tiền chuyển nhượng của ông Sánh. Đồng thời, lời khai của ông Sánh trong Bản tự khai ngày 28/4/2017, tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an TP Cẩm Phả: “Tôi chưa bao giờ đưa cho ông Quyền số tiền 8.000.000 đồng và cũng không đưa thêm tiền gì cho ông Quyền để mua thửa đất trên”. Do đó có thể thấy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Vũ Văn Quyền, bà Lê Thị Dung và ông Vũ Ngọc Sánh ngày 23/6/2000 vô hiệu, do không đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự tài điều 136 Bộ luật Dân sự.
Thứ tư, về trình tự cấp GCNQSDĐ cho ông Vũ Ngọc Sánh, ngày 14/3/2003 đối với thửa đất số 227, diện tích 115,9m2 tại tổ 8, khu 5A, phường Cẩm Trung, TP Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh là chưa phù hợp quy định pháp luật. Căn cứ vào lời khai của ông Vũ Văn Khôi và Quách Đình Sơn đều khẳng định không kí Biên bản kiểm tra thực địa (nhà ở, đất ở) ngày 23/6/2000. Do đó, chữ kí trong tài liệu này có dấu hiệu giả mạo, việc kiểm tra hiện trạng đất của UBND phường Cẩm Trung chưa đúng trình tự, thủ tục.
Việc chuyển nhượng giữa vợ chồng ông Vũ Ngọc Sánh, bà Trần Thị Thanh và vợ chồng ông Trần Tuấn Dương, bà Nguyễn Thị Thanh Huấn (Hợp đồng chuyển nhượng số 549 ngày 5/11/2005) sẽ vô hiệu do không bảo đảm điều kiện có hiệu lực của giao dịch và giả tạo. Bởi vậy, việc đăng kí biến động sang tên quyền sử dụng đất cho ông Trần Tuấn Dương, bà Nguyễn Thị Thanh Huấn chưa đúng quy định pháp luật.
Mặt khác, trong quá trình xét xử, Toà phúc thẩm có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng thủ tục trong việc đánh giá chứng cứ (Điều 108, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005): Cụ thể, TAND tỉnh Quảng Ninh sử dụng 2 Kết luận giám định khác nhau nhưng đối với bà Dung thì TAND tỉnh Quảng Ninh sử dụng Kết luận giám định số: 3156/C53-45 ngày 25/7/2017 của Viện Khoa học hình sự, Tổng cục Cảnh sát, còn đối với chữ kí ông Quyền thì TAND tỉnh Quảng Ninh sự dụng Kết luận số: 299/KL-GĐKTHS (P11) ngày 27/9/2023 của Phòng Kĩ thuật hình sự, Bộ Quốc phòng dẫn tới sự mâu thuẫn và thiếu khách quan trong việc đánh giá chứng cứ trong vụ án.