6 căn cứ pháp lí khiếu nại Quyết định số 469/QĐ-UBND của các hộ dân
Pháp luật - Bạn đọc 19/02/2020 08:57
12 căn cứ liên quan đến việc cấp đất giãn dân và nghĩa vụ tài chính khi được cấp đất
1) QĐ số 1633/CT ngày 5/12/1996 ban hành đúng trình tự pháp luật căn cứ Luật Đất đai năm 1993; căn cứ QĐ số 263/TTg ngày 25/4/1996 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 1996 của tỉnh Hà Bắc; xét đề nghị của UBND huyện Lạng Giang tại Tờ trình số 14 TT-UB ngày 21/12/1995 và Tờ trình số 408/ĐC-KHTC ngày 28/11/1996 của Sở Địa chính.
2) Trích Nghị quyết số 01/NQ ngày 18/12/1995 của HĐND xã Đào Mỹ duyệt giao đất ở cho dân 5 khu vực (51 hộ dân). Đúng trình tự đúng pháp luật.
3) Tờ trình số 14 ngày 21/12/1995 của UBND huyện Lạng Giang xin giao đất giãn dân cho 51 hộ dân xã Đào Mỹ, có 12 hộ khu vực chợ Tân Quang, mỗi hộ 68m2 đất chuyên dùng, diện tích đất này đã được UBND tỉnh cho chuyển đổi 1.197m2 trong đó có 816 m2 đất ở, 285m2 hành lang, 96m2 đường, không liên quan gì đến diện tích đất chợ Tân Quang còn lại.
4) Tờ trình số 408 ngày 28/11/1996 của Sở Địa chính đề nghị giao đất ở cho Nhân dân xã Đào Mỹ (51hộ), đất chuyên dùng 1.197m2, ở khu chợ Tân Quang, đúng theo căn cứ pháp luật và đúng sự thật.
Người dân được giao đất giãn dân năm 1996, tại khu chợ Tân Quang vẫn sinh sống ổn định từ đó đến nay. |
5) Theo bản đồ số 25 có đóng dấu của UBND xã Đào Mỹ, người kiểm tra là ông An Hải, chợ Tân Quang thuộc thửa số 591-1, tờ bản đồ số 25, diện tích 3.970m2 đất chuyên dùng hạng 1, chuyển đổi 1197m2 giao cho 12 hộ dân, khu chợ Tân Quang còn lại 2.773m2 là đất chuyên dùng.
QĐ số 86/XDCB ngày 16/11/1995 phê duyệt xây dựng chợ Tân Quang 3 gian nhà chợ (có 13 gian ki ốt) diện tích 455,52m2) trên diện tích 2.773m2 đất chuyên dùng hạng 1 không chuyển đổi.
6) Trên thực tế năm 2018 đã phá sạch 3 gian nhà chợ (không xây thành 13 gian ki ốt của chợ Tân Quang xây năm 1996) để xây chợ mới, nhưng 12 gian ki ốt giao đất giãn dân theo QĐ số 1633 ngoài phố chợ Tân Quang vẫn còn, vì không trùng vị trí với 13 gian ki ốt trong chợ.
7) Biên bản bàn giao ki ốt ngày 23/6/1995 bảo đảm giấy tờ thủ tục được chính quyền duyệt cho sử dụng ki ốt, sau đó được cấp đất giãn dân tại vị trí này theo QĐ số 1633.
8) Phiếu thu số 186 ngày 18/6/1995, hộ Nguyễn Hữu Hoa nộp tiền mua ki ốt chợ Tân Quang 20 triệu đồng, minh chứng các hộ dân đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính về đất dãn dân và mua tài sản ki ốt trên đất giãn dân.
9) Ngày 2/5/1997, UBND xã Đào Mỹ nộp 67.138.000 đồng tiền sử dụng đất cho 51 hộ theo QĐ số 1633, có 12 hộ dân khu vực chợ Tân Quang.
10) Công văn số 150/CV-UBND ngày 31/10/2013 của UBND xã Đào Mỹ, do Chủ tịch Ngô Văn Tuấn kí có nội dung: “Năm 1995, UBND xã Đào Mỹ làm thủ tục bán ki ốt chợ Tân Quang đã thu tiền của các hộ dân và nộp vào ngân sách Nhà nước, đồng thời giao nhà ki ốt cho các hộ dân theo Biên bản ngày 23/6/1995. Tại QĐ số 1633 ngày 5/12/1996, UBND tỉnh Hà Bắc đã giao đất giãn dân cho 12 hộ dân khu (ki ốt) chợ Tân Quang.
11) Biên bản làm việc ngày 3/12/2015 của UBND tỉnh Bắc Giang có nội dung: UBND xã Đào Mỹ đã nộp đủ tiền sử dụng đất và lệ phí địa chính vào ngân sách theo Giấy nộp tiền số 000578 ngày 2/5/1997, với số tiền 67.138.000 đồng trên diện tích 8.038m2 đất ở (trong đó có 12 lô đất diện tích 68m2/lô, tổng diện tích 816m2 tại khu vực chợ Tân Quang).
12) Nguồn gốc đất 12 hộ dân được giao theo QĐ số 1633 khu vực chợ Tân Quang là rõ ràng đúng pháp luật, các hộ đã hoàn thành các nghĩa vụ tài chính khi được giao đất, đủ điều kiện được cấp sổ đỏ theo Điều 100 Luật Đất đai năm 2013. Vì sao UBND tỉnh lại căn cứ vào Báo cáo số 294/BC-STNMT giải quyết khiếu nại của bà Phạm Thị Sang để hủy một phần QĐ số 1633, không đúng quy trình thu hồi đất của Luật Đất đai năm 2013.
Từ 12 căn cứ pháp luật trên, các hộ dân kiến nghị UBND tỉnh Bắc Giang tổ chức đối thoại với công dân, để làm rõ có hay không có tờ trình của UBND xã Đào Mỹ, UBND huyện Lạng Giang và Sở TN&MT về việc Quyết định 1633/CT ngày 5/12/1996 vi phạm pháp luật? Có hay không có tờ trình của các cấp, kiến nghị việc trùng vị trí với 13 gian ki ốt chợ Tân Quang xây năm 1996, trên diện tích 2.773m2 là đất chuyên dùng chợ Tân Quang chưa chuyển đổi, với 1.197m2 đất đã chuyển đổi (trong đó có 816m2 đất ở dãn dân khu chợ Tân Quang)? Đề nghị làm rõ Quyết định 1633 trước ngày 25/3/2015 có giá trị pháp lí hay không? Việc người dân đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính khi được giao đất giãn dân, sống ổn định từ năm 1996 đến nay, vì lí do gì chưa được cấp sổ đỏ?
6 nội dung khiếu nại QĐ số 469/QĐ-UBND
Trong quá trình khiếu nại từ năm 2015 đến nay, các hộ dân đã đưa ra 6 nội dung khiếu nại QĐ số 469/QĐ-UBND ngày 25/3/2015 của UBND tỉnh Bắc Giang đây là những tình tiết, căn cứ pháp luật mới, người dân cung cấp cho chính quyền, nhưng chưa được đối thoại giải quyết theo Luật Khiếu nại.
1) Căn cứ Điều 3 của QĐ số 469, các hộ dân phải nhận được QĐ số 469 như đã ghi ở nơi nhận, nhưng thực tế QĐ số 469 không gửi cho người dân.
2) QĐ số 469 Căn cứ vào luật Đất đai năm 2013, nhưng đã vi phạm Luật Đất đai năm 2013, vì không đưa ra được căn cứ thu hồi đất của 12 hộ dân khu giãn dân chợ Tân Quang.
3) QĐ số 469 không có căn cứ tờ trình thu hồi đất của UBND xã Đào Mỹ, UBND huyện Lạng Giang và Sở TN&MT.
4) QĐ số 469 căn cứ vào báo cáo số 294/BC-TNMT đây là báo cáo giải quyết đơn của bà Sang không phải là tờ trình thu hồi đất.
5) QĐ số 469 hủy 1 phần QĐ số 1633 không giao đất cho các hộ dân khu vực chợ Tân Quang vì theo Sở TN&MT là trùng vị trí ki ốt trong chợ với ki ốt của các hộ dân, nên không giao được. Đây là nội dung sai sự thật 13 ki ốt trong 3 gian nhà chợ đã bị phá để xây mới năm 2018, còn 12 ki ốt giãn dân ngoài mặt phố chợ Tân Quang vẫn còn.
6) QĐ số 469 vi phạm Điều 18 và 29 Nghị định số 40/2010 của Chính phủ.