Phường 2, TP Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh: Bất cập từ văn bản chỉ đạo kiểm điểm đảng viên
Pháp luật - Bạn đọc 03/07/2019 09:22
Cụ thể, ông Lê Tấn Đông, Phó Bí thư Đảng ủy phường 2 kí Văn bản số 283-CV/ĐU ngày 21/5/2019, yêu cầu bà Trần Thị Thanh Thảo, đảng viên, công chức công tác tại phường 2 viết kiểm điểm những nội dung vi phạm, tự nhận sai phạm và hình thức kỉ luật.
Những sai phạm được nêu trong công văn này là: “Đồng chí Trần Thị Thanh Thảo đã vi phạm điểm e, Khoản 1, Điều 15: Không thực hiện các yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về khiếu nại, tố cáo; điểm c, Khoản 2, Điều 15: Cố ý không chấp hành quyết định giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; điểm b, Khoản 3, Điều 21: Đồng chí đã giả mạo, gian lận giấy tờ, làm sai lệch hồ sơ trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bản thân”.
Về nội dung văn bản trên, bà Thảo cho rằng: “Tôi không đồng ý với văn bản mà ông Đông kí vì có nhiều điểm không phù hợp với nội dung sự việc. Để bảo vệ quyền lợi của mình, tôi đã gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền của TP Tây Ninh, hiện đang chờ các cơ quan này giải quyết”.
Trụ sở UBND, HĐND phường 2, TP Tây Ninh. |
Như vậy, việc đúng sai còn phải chờ quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Nhưng ở góc nhìn khác khi đối chiếu với Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Ban Chấp hành Trung ương quy định xử lí kỉ luật đảng viên vi phạm, thì có vẻ văn bản mà ông Lê Tấn Đông kí đã không trích dẫn nguyên văn mà thêm, bớt từ ngữ so với điều khoản của quy định này.
Văn bản số 283-CV/ĐU ghi bớt nội dung, để cho rằng bà Thảo đã vi phạm “Điểm c, Khoản 2, Điều 15: Cố ý không chấp hành quyết định giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền”.
Trong khi, theo Điểm c, Khoản 2, Điều 15 Quy định 102-QĐ/TW thì hành vi sai phạm là: “Cố ý không chấp hành quyết định cuối cùng về tố cáo và kết luận, quyết định giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền”. Vậy những hành vi của vi phạm này gồm có “quyết định cuối cùng về tố cáo” và “kết luận, quyết định giải quyết tố cáo”. Trong khi văn bản của Đảng ủy phường 2 chỉ nêu “cố ý không chấp hành quyết định giải quyết tố cáo”, chứ không phải là “quyết định cuối cùng về tố cáo”.
Tiếp đến, nguyên văn của điểm b, Khoản 3, Điều 21 Quy định 102-QĐ/TW là: “Giả mạo, gian lận giấy tờ, làm sai lệch hồ sơ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu đối với nhà ở”. Vậy Quy định này có thể hiểu là sẽ vi phạm khi có 1, 2 hoặc cả 3 hành vi “Giả mạo, gian lận giấy tờ, làm sai lệch hồ sơ”. Và Văn bản số 283-CV/ĐU lại ghi thêm nội dung: “Căn cứ … Điểm b, Khoản 3, Điều 21: Đồng chí đã giả mạo, gian lận giấy tờ, làm sai lệch hồ sơ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bản thân”. Như vậy ông Đông khẳng định bà Thảo vi phạm cả 3 hành vi, là “vội vàng”, nếu chỉ vi phạm có 1 hoặc 2 hành vi thì chẳng khác nào ông Đông “vu khống” bà Thảo.
Vậy, dụng ý của ông Đông khi thêm, bớt nội dung trên đây là để làm gì?
Để có thêm thông tin, phóng viên đã nhiều lần liên hệ làm việc với ông Lê Tấn Đông bằng điện thoại, nhắn tin, gửi email đăng kí hẹn làm việc, nhưng nhiều ngày trôi qua vẫn không thấy hồi âm.
Chưa hết, trong Kế hoạch giải quyết tố cáo số 148 - KH/ĐU, đề ngày 10/4/2019 của Đảng ủy phường 2 do bà Thảo cung cấp, có điểm đáng ngờ: Theo nội dung ghi âm do bà Thảo cung cấp, thể hiện được cho là cuộc nói chuyện giữa Bà với một số cán bộ Đảng ủy phường 2. Trong khi nhóm người đang “lời qua, tiếng lại” giải thích cho bà Thảo về việc giải trình nội dung tố cáo thì có tiếng của cán bộ nữ nói rằng bà “S” đã trực tiếp gửi đơn.
Bà Thảo cho rằng, lúc đầu không biết ai tố cáo mình, nhưng nhờ Kế hoạch giải quyết tố cáo số 148 - KH/ĐU và lời nói của các cán bộ phường 2, nên đã nhận ra người tố cáo mình là bà N.T.S.
Vậy có phải cán bộ phường 2, TP Tây Ninh cố tình để lộ tên người tố cáo cho người bị tố cáo biết? Việc làm này có đúng quy định? Nếu người tố cáo bị trù dập, trả thù thì liệu các cán bộ này có vô can?
Theo quy định tại Tiết 5.1.1, Điểm 5.1, Khoản 5 Quy định số 30-QĐ/TW ngày 26/6/2016 của Ban Chấp hành Trung ương: “…Ủy ban kiểm tra giải quyết tố cáo phải xử lí hoặc đề nghị cấp ủy xử lí nghiêm những trường hợp sau: Truy tìm, trù dập, trả thù người tố cáo; cản trở, dìm bỏ, không xem xét, giải quyết tố cáo; bao che những việc làm sai trái của đối tượng bị tố cáo; để lộ tên người tố cáo cho đối tượng bị tố cáo biết, để lộ tên người tố cáo, nội dung tố cáo cho người không có trách nhiệm biết; …”.
Trong một diễn biến khác, ông Lưu Trung Đan, Phó Chủ tịch UBND phường 2 kí Văn bản số 24/UBND, đề ngày 17/5/2019, có nội dung: Đề nghị bà L.T.H.N làm kiểm điểm về hành vi chỉnh sửa hợp đồng không đúng quy định. Nhưng không hiểu sao lại có đoạn “lôi” bà Thảo vào: “Căn cứ kết quả xác minh của Công an TP Tây Ninh tại Công văn số 178/CATP Ngày 2/5/2019, UBND phường 2 xác định: Việc chỉnh sửa nội dung hợp đồng là do bà Trần Thị Thanh Thảo (bên mua) tự ý thực hiện mà không có sự trao đổi và đồng ý của bên bán. Bà Thảo tự sửa: Thửa đất số 116 chỉnh sửa thành thửa đất số 118…” (!?)
Tuy nhiên, khi đối chiếu với Công văn số 178/CATP ngày 2/5/2019, mà bà Thảo cung cấp, thì không thấy có đoạn nào thể hiện cơ quan Công an xác định bà Thảo tự ý sửa từ thửa đất số 116 thành 118.
Từ những vấn đề nêu trên, khiến dư luận dấy lên nhiều nghi vấn về sự công tâm trong khi thực thi công vụ của các cán bộ lãnh đạo phường 2!?