Vì sao chủ nợ lại được sang tên thửa đất bằng hợp đồng “giả cách”?
Pháp luật - Bạn đọc 07/07/2023 15:19
Thế chấp sổ đỏ vay tiền
Ông Ngô Minh Triết trình bày: Chị Ngô Thị Ngọc Dung (con gái ông Triết) và chồng là anh Lê Minh Tú, cùng là nguyên đơn trong vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) với vợ chồng ông Nguyễn Văn Tới, bà Huỳnh Thị Lệ, ở huyện Bình Chánh, được TAND huyện Bình Chánh thụ lí giải quyết (Thông báo số: 143/2022/TLST-DS ngày 31/3/2022).
Hồ sơ vụ án thể hiện: Chị Dung là chủ sử dụng hợp pháp QSDĐ thửa số 609 (diện tích 3.528m2, đất trồng cây lâu năm, thời hạn sử dụng đến năm 2015), tờ bản đồ số 26, ở thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh; được UBND huyện Bình Chánh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BĐ 794848, số vào sổ cấp GCN: CH00581 (gọi tắt là: “sổ đỏ” số CH00581) ngày 24/2/2011.
Cổng và hàng rào trước mặt tiền thửa đất 609 do chị Ngô Thị Ngọc Dung xây dựng theo giấy phép. |
Ngày 9/4/2011, UBND huyện Bình Chánh ban hành Quyết định số: 1552/QĐ-UBND, chấp thuận chị Dung được chuyển mục đích sử dụng thửa đất 609 bằng hình thức “giao đất” để đầu tư xây dựng nhà trưng bày sản phẩm và văn phòng làm việc, thời hạn 50 năm.
Ngày 24/5/2011, chị Dung được Phòng Quản lí đô thị huyện Bình Chánh cấp Giấy phép xây dựng tường rào trên thửa đất 609 với chiều dài 295,34m, cao 2,6m, kết cấu cột bê-tông cốt thép. Ngoài tường rào và cổng, chị Dung còn xây nhà và kí hợp đồng với Công ty điện lực lắp đặt trạm biến áp, lắp đặt hệ thống cấp nước. Tổng chi phí đầu tư trên khu đất khoảng hơn 2 tỉ đồng. Vợ chồng chị Dung cũng thuê người để ở và trông coi khu đất.
Ngày 11/11/2011, UBND TP Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số: 5434/QĐ-UBND, duyệt giá trị QSDĐ mà chị Dung phải nộp đối với thửa đất 609 là 23,698 tỉ đồng.
Do cần tiền đầu tư, vợ chồng chị Dung vay của ông Nguyễn Văn Tới 15 tỉ đồng, lãi suất 5%/tháng. Lấy lí do vay số tiền lớn, ông Tới yêu cầu vợ chồng chị Dung kí một hợp đồng giả cách chuyển nhượng thửa đất số 609 cho ông Tới để làm tin, nhằm bảo đảm khoản vay trên. Hợp đồng chuyển nhượng này được Phòng Công chứng số 2, TP Hồ Chí Minh công chứng ngày 12/12/2011.
Bản chính Biên bản thỏa thuận “về việc vay tài sản”, được lập lúc 17 giờ 00 ngày 12/12/2011 có chữ ký và chữ viết của ông Nguyễn Văn Tới "đã đọc và đồng ý" |
Tuy nhiên, ngay sau khi kí Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, vợ chồng chị Dung yêu cầu ông Tới kí tiếp một văn bản khác để làm tin. Đó là “Biên bản thỏa thuận” về việc vay tài sản, có đầy đủ chữ kí, chữ viết của các bên.
Nội dung “Biên bản thoả thuận” xác định như sau:
“Căn cứ Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 12/12/2011 giữa ông Lê Minh Tú cùng vợ là bà Ngô Thị Ngọc Dung và Nguyễn Văn Tới.
Hôm nay, lúc 17 giờ, ngày 12/12/2011, tại địa chỉ DB ấp 4, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh.
Bên chuyển nhượng (gọi tắt là bên A): Ông Lê Minh Tú, cùng vợ là bà Ngô Thị Ngọc Dung, thường trú B9/59 tổ 9, ấp 2, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh;
Bên nhận chuyển nhượng (gọi tắt là bên B): Ông Nguyễn Văn Tới, thường trú DB ấp 4, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh;
Quyết định số 1552/QĐ-UBND ngày 09/4/2011 của UBND huyện Bình Chánh |
Sau khi bàn bạc, thoả thuận, hai bên cùng thống nhất nội dung sau:
Điều 1: Tài sản vay: Hợp đồng chuyển QSDĐ ngày 12/12/2011, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 794848, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH00581 do UBND huyện Bình Chánh cấp ngày 24/02/2011: Thửa đất số 609, tờ bản đồ số 26; địa chỉ thửa đất: Thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh.
Hợp đồng chuyển QSDĐ này thực tế là Hợp đồng vay tài sản, số tiền vay là 15.000.000.000 đồng (Bằng chữ: Mười lăm tỉ đồng chẵn).
Để bảo đảm khoản tiền vay, bên A đồng ý thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho bên B.
Điều 2: Kì hạn vay: Kì hạn vay là 6 tháng, kể từ ngày kí Biên bản thoả thuận này và nhận đủ số tiền vay.
Điều 3: Lãi suất vay: Do hai bên tự thỏa thuận theo quy định của pháp luật.
Điều 4: Cam kết của các bên
Bên B không được quyền chuyển nhượng QSDĐ khi chưa hết thời hạn vay theo Điều 2 của Biên bản thoả thuận này. Việc giao kết Biên bản thoả thuận này là hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối hoặc ép buộc.
Biên bản này được lập và kết thúc vào lúc 17 giờ 30 cùng ngày, lập thành 2 (hai) bản. Mỗi bên giữ 1 bản, có giá trị như nhau để cùng theo dõi và thực hiện”.
Cuối biên bản thoả thuận là chữ kí và chữ viết của ông Tới: “Đã đọc và đồng ý”; chữ kí và chữ viết của vợ chồng anh Lê Minh Tú và chị Ngô Thị Ngọc Dung: “Đã đọc và đồng ý”.
Có thể thấy, “Biên bản thỏa thuận” về việc vay tài sản lập ngày 12/12/2011, đã xác định rõ ràng: Hợp đồng chuyển QSDĐ thửa đất 609 do Phòng Công chứng số 2, TP Hồ Chí Minh công chứng ngày 12/12/2011 là hợp đồng “giả cách”, mục đích nhằm che giấu giao dịch vay tiền 15 tỉ đồng, thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ số CH00581).
Do chỉ là việc thế chấp đất để vay tiền nên bà Dung vẫn sử dụng thửa đất 609 cho đến nay. Chiếu theo Quyết định số: 5434/QĐ-UBND ngày 11/11/2011 của UBND TP Hồ Chí Minh, chị Dung phải nộp hơn 23,69 tỉ đồng. Nộp 1 lần số tiền lớn, chị Dung không đủ khả năng tài chính nên có đơn ngày 13/12/2012, xin chuyển từ giao sang thuê đất, đóng tiền thuê hằng năm.
Ngày 24/4/2013, UBND huyện Bình Chánh ban hành Quyết định số: 1936/QĐ-UBND “điều chỉnh Quyết định số 1552/QĐ-UBND” với hai nội dung chấp thuận:
(1) Chị Dung được chuyển mục đích sử dụng 3.128m2 từ “giao” sang “thuê đất” để đầu tư xây dựng nhà trưng bày sản phẩm và văn phòng làm việc. Thời hạn thuê 5 năm, kể từ ngày 9/4/2011.
(2) Chị Dung được chuyển mục đích 400m2 đất xây dựng nhà ở riêng lẻ.
Thực hiện theo nội dung số (01) của Quyết định số: 1936/QĐ-UBND ngày 4/6/2013, Phòng Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) huyện Bình Chánh và chị Dung tiến hành kí Hợp đồng thuê đất số: 11/HĐTĐ-TNMT, thời hạn 5 năm, tính từ ngày 9/4/2011. Căn cứ các Quyết định của UBND huyện Bình Chánh và Hợp đồng thuê đất, Chi cục Thuế huyện Bình Chánh ra thông báo thu tiền thuê hằng năm đối với thửa đất 609.
Thực hiện theo nội dung số (2) của Quyết định số: 1936/QĐ-UBND ngày 4/6/2013, Phòng TN&MT huyện Bình Chánh có Phiếu chuyển số: 16/PC-TBNT ngày 9/5/2013 gửi Chi cục Thuế huyện Bình Chánh xác định nghĩa vụ tài chính đối với 400m2 được chuyển mục đích sử dụng xây dựng nhà ở.
Ngày 30/9/2013, Chi cục Thuế ra Thông báo số: 8092/TB-CCT, xác định tiền sử dụng đất chị Dung phải nộp cho 400m2 đất chuyển sang đất ở là 712,08 triệu đồng. Ngày 5/11/2013, chị Dung nộp đủ số tiền này.
Đơn “Đăng kí biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất” ngày 24/1/2017 của ông Tới. |
“Âm thầm” đăng bộ sang tên bằng hợp đồng giả cách(!?)
Ngay khi Hợp đồng thuê đất số: 11/HĐTĐ-TNMT kết thúc, chị Ngô Thị Ngọc Dung nhận được Văn bản số: 22655/TB-CCT ngày 25/4/2016 của Chi cục Thuế huyện Bình Chánh thông báo nộp tiền thuê đất “sản xuất kinh doanh” cho cả năm 2016 là hơn 141,27 triệu đồng.
Chi cục Thuế ra thông báo thu tiền của chị Dung thuê đất (từ 2017 đến 2023), với số tiền thuê năm sau cao hơn năm trước. Chính vì thế nên chị Dung tin việc thuê thửa đất 609 được gia hạn và nộp đầy đủ tiền thuê đất theo quy định. Vợ chồng bà Dung vẫn quản lí, sử dụng thửa đất 609, xây nhà, tường rào và cổng kiên cố, lắp đặt trạm biến áp, thuê người vào ở và trông coi đất.
Anh Tú và chị Dung cho biết: “Ngoài khoản vay 15 tỉ đồng, mẹ chúng tôi là bà Nguyễn Thị Quí (chủ doanh nghiệp) có vay của bà Huỳnh Thị Lệ (vợ ông Nguyễn Văn Tới) khoản tiền không thế chấp. Tính từ ngày 18/4/2013 đến khi mẹ chúng tôi qua đời (ngày 26/2/2022), bà đã thanh toán tổng số tiền 65,976 tỉ đồng, trong đó 59 lần có chứng từ với số tiền 64,771 tỉ đồng. Mẹ chúng tôi cho biết, số tiền thanh toán này có phần đóng lãi 5% tháng cho khoản vay 15 tỉ đồng. Tiếc rằng, bà đột ngột ra đi nên không rõ đã trả được bao nhiêu lần tiền lãi. Sau khi mẹ qua đời, chúng tôi mới phát hiện ông Tới đã đăng bộ sang tên thửa đất 609 từ tháng 3/2017”.
Ngay khi phát hiện sự việc, ngày 24/3/2022, vợ chồng anh Tú và chị Dung đã nộp đơn khởi kiện ông Tới ra tòa (TAND huyện Bình Chánh thụ lí ngày 31/3/2022), yêu cầu Tòa án tuyên Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 12/12/2011 giữa anh Tú, chị Dung với ông Tới là vô hiệu vì giả tạo, nhằm che giấu giao dịch vay tiền; đồng thời, hủy việc đăng bộ sang tên thửa đất 609 cho ông Tới. Vợ chồng anh Tú, chị Dung đồng ý trả lại ông Tới 15 tỉ đồng tiền vay, kèm lãi 0,5%/tháng, tạm tính đến tháng 3/2022 là 9 tỉ đồng. Tổng cộng số tiền nguyên đơn trả cho ông Tới là 24 tỉ đồng.
Không chấp nhận số tiền 24 tỉ đồng, ông Tới cùng vợ là bà Huỳnh Thị Lệ kí Hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ thửa đất 609 đang có tranh chấp cho ông Mạc Công Dũng, ngụ thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, với giá 20,5 tỉ đồng, Văn phòng Công chứng Tân Thuận công chứng ngày 23/5/2022.
Quá trình khởi kiện, vợ chồng chị Dung thu thập nhiều tài liệu chứng cứ chứng minh ông Tới có dấu hiệu thể hiện sự gian dối để được đăng bộ sang tên thửa đất 609, cũng như có dấu hiệu “ưu ái” của một số cán bộ giúp ông Tới thực hiện trót lọt việc đăng bộ sang tên thửa đất 609, thu 20,5 tỉ đồng.
Theo đó, ngày 24/1/2017, ông Tới làm Đơn “đăng kí biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất” đối với thửa đất 609. Hồ sơ kèm theo là Hợp đồng chuyển QSDĐ “giả cách” thửa đất 609, do Phòng Công chứng số 2, TP Hồ Chí Minh công chứng ngày 12/12/201 và bản chính “sổ đỏ” số CH00581.
Trong Đơn “đăng kí biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất”, ông Tới làm theo mẫu, gửi UBND huyện Bình Chánh, có nội dung:
Phần I. Phần kê khai của người đăng kí, thể hiện: Ông Tới tự nhận mình là “người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, người quản lí đất” thửa đất 609, loại đất “trồng cây lâu năm” theo sổ đỏ CH00581. Lí do đăng kí biến động: Gia hạn QSDĐ.Tình hình thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với thửa đất đăng kí biến động: Bỏ trống.
Phần II. Xác nhận của UBND cấp xã, thể hiện: Có chữ kí của ông Nguyễn Anh Nhân, Công chức địa chính thị trấn Tân Túc kí ngày 15/2/2017 và chữ kí của ông Nguyễn Văn Nhạc, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Tân Túc, ghi ngày kí và đóng dấu 17/2/2017, nội dung: “Hiện trạng thửa 609 là đất vườn, không tranh chấp, không thuộc các dự án thu hồi đất, thuận việc gia hạn QSDĐ”.
Phần III.Ý kiến của Chi nhánh Văn phòng Đăng kí đất đai (ĐKĐĐ) huyện Bình Chánh¸ thể hiện: Có chữ kí của “người kiểm tra” tên Đặng Việt Hữu (không ghi chức vụ) kí ngày 9/3/2017, xác định: “Hồ sơ đủ điều kiện đăng kí biến động”. Trong khi, quy định ở phần này phải có Giám đốc Chi nhánh Văn phòng ĐKĐĐ kí tên, đóng dấu, nhưng lại bỏ trống.
Phần IV. Ý kiến của Phòng TN&MT huyện Bình Chánh, thể hiện: Theo quy định, phần này có xác nhận của “người kiểm tra” và thủ trưởng cơ quan kí tên, đóng dấu, nhưng đều bỏ trống.
Ngay trong ngày 9/3/2017, hồ sơ được chuyển đến Chi cục Thuế huyện Bình Chánh kèm theo Phiếu chuyển thông tin địa chính để xác định nghĩa vụ tài chính số 2427/PC-VPĐK-CNBC.
Căn cứ hồ sơ và Phiếu chuyển của Chi nhánh Văn phòng ĐKĐĐ ngày 14/3/2017, Chi cục Thuế ra Thông báo “nộp thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân chuyển nhượng bất động sản” cho anh Lê Minh Tú và chị Ngô Thị Ngọc Dung, mỗi người nộp 150 triệu đồng. Ngay sau đó, một người tên Lê Minh Huy đứng ra nộp tiền thuế thay cho anh Tú và chị Dung, thể hiện bằng 2 Giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước ngày 20/3/2017.
Ngày 24/3/2017, ông Huỳnh Công Thanh, Giám đốc Chi nhánh Văn phòng ĐKĐĐ huyện Bình Chánh, kí cập nhật trên trang 3 của “sổ đỏ” số CH00581 với 2 nội dung: “Được tiếp tục sử dụng đất đến năm 2065 theo đơn đăng kí do ông Nguyễn Văn Tới lập; đã chuyển nhượng hết diện tích đất cho ông Nguyễn Văn Tới theo Hợp đồng chuyển nhượng được công chứng ngày 12/12/2011, số biến động 27595 007739CN.VP”.
Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn chỉ ra 4 điểm có dấu hiệu gian dối:
Một, ông Tới biết rõ Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 12/12/2011 thực chất là “Hợp đồng vay tài sản”. Vì ông Tới đã thừa nhận kí tên vào “Biên bản thỏa thuận về việc vay tài sản” ngày 12/12/2011 và tự tay viết “đã đọc và đồng ý”. Thế nhưng ông Tới vẫn cố tình sử dụng Hợp đồng “giả cách” này để tiến hành các thủ tục đăng bộ sang tên “sổ đỏ”số CH00581.
Hai, việc chọn thời điểm ngày 24/1/2017 để làm đơn “đăng kí biến động đất đai”. Ông Tới biết rõ Hợp đồng thuê đất kết thúc ngày 9/4/2016, nhưng tiền thuê đất được Chi cục Thuế tính cả năm 2016, nên ông Tới chọn thời điểm đầu năm 2017 “âm thầm” đăng kí biến động đất đai, đăng bộ sang tên thửa đất vì cho rằng Hợp đồng thuê đất đến thời điểm này đã chấm dứt.
Trong khi, thực tế sau khi Hợp đồng thuê đất kết thúc ngày 9/4/2016, Chi cục Thuế tiếp tục thu tiền thuê đất của chị Dung xuyên suốt cho đến nay, với tổng số tiền hơn 2,2 tỉ đồng. Vợ chồng anh Tú, chị Dung vẫn là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất 609, trong đó có 400m2 là đất thổ cư đã hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất.
Ba, hồ sơ thể hiện có dấu hiệu ông Tớicho người “giả” vợ chồng anh Tú, chị Dung kê khai và nộp thuế “thu nhập cá nhân đối chuyển nhượng bất động sản”, mỗi người 150 triệu đồng thể hiện bằng 2 Giấy nộp tiền ngày 20/3/2017.
Bốn, vợ chồng ông Tới, bà Lệ biết rõ thửa đất 609 đang tranh chấp, đã được TAND huyện Bình Chánh thụ lí ngày 31/3/2022; biết trong đơn khởi kiện, nguyên đơn đề xuất trả nợ gốc và lãi 24 tỉ đồng để nhận lại QSDĐ thửa 609 đúng như Biên bản thoả thuận mà 2 bên đã kí kết ngày 12/12/2011. Nhưng vợ chồng ông Tới, bà Lệ vẫn chuyển nhượng QSDĐ thửa 609 đang tranh chấp cho ông Mạc Công Dũng, với giá chỉ 20,5 tỉ đồng.
Dấu hiệu của hành vi làm trái công vụ?
Người tố giác lên tiếng: Liên quan thửa đất 609, UBND huyện Bình Chánh đã ban hành 2 Quyết định số 1552/QĐ-UBND ngày 9/4/2011và Quyết định số 1936/QĐ-UBND ngày 24/4/2013 “Chấp thuận cho chị Ngô Thị Ngọc Dung được chuyển mục đích sử dụng 3.128m2 để đầu tư xây dựng nhà trưng bày sản phẩm và văn phòng làm việc và 400m2 đất xây dựng nhà ở riêng lẻ”. Cả 2 Quyết định này đều được gửi cho các cơ quan liên quan trong đó có UBND thị trấn Tân Túc, Chi nhánh Văn phòng ĐKĐĐ và Phòng TN&MT huyện Bình Chánh để phối hợp chịu trách nhiệm thi hành.
Quyết định số 13/2023/QĐDS-ST “tạm đình chỉ giải quyết vụ án” ngày 4/5/2023 củaTAND huyện Bình Chánh. |
Tuy nhiên, việc giải quyết Đơn “Đăng kí biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất” do ông Tới lập, hồ sơ thể hiện các cán bộ địa chínhcó dấu hiệu sai phạm.
Thứ nhất: Thửa đất 609 đã được chuyển mục đích sử dụng thành đất “sản xuất kinh doanh” (đầu tư xây dựng nhà trưng bày sản phẩm và văn phòng làm việc) từ ngày 9/4/2011 theo Quyết định số: 1552/QĐ-UBND của UBND huyện Bình Chánh. Trong khi Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ kí ngày 12/12/2011, xác định đất “trồng cây lâu năm” là không đúng mục đích sử dụng đất.
Thứ hai: Căn cứ hồ sơ pháp lí, thửa đất 609 không thuộc các trường hợp được phép mua bán, chuyển nhượng. Bởi, tại thời điểm kí Hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 12/12/2011, chị Dung chưa thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với Nhà nước theo Quyết định số: 5434/QĐ-UBND của UBND TPHồ Chí Minh. Mặt khác, chị Dung đã được UBND huyện Bình Chánh cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để đầu tư xây dựng nhà trưng bày sản phẩm và văn phòng làm việc theo Quyết định số: 1552/QĐ-UBND của UBND huyện Bình Chánh.
Thứ ba: Tại thời điểm ông Tới làm Đơn “Đăng kí biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất” ngày 24/1/2017, “sổ đỏ” số CH00581 vẫn đứng tên chị Dung. Theo quy định của pháp luật, trong trường hợp hết thời hạn sử dụng đất thì chị Dung mới là người có thẩm quyền thực hiện xin gia hạn sử dụng thửa đất 609, chứ không phải ông Tới. Cả 4 cán bộ xác nhận cho ông Tới là không đúng đối tượng; xác định thửa đất nông nghiệp “trồng cây lâu năm”, để gia hạn quyền sử dụng lại sai hơn. Bởi thửa đất 609 không còn là đất “trồng cây lâu năm”, mà được chuyển mục đích thành đất “sản xuất kinh doanh” (3.128m2) và “đất ở” (400m2), sử dụng lâu dài theo 2 Quyết định số: 1552/QĐ-UBND ngày 9/4/2011 và Quyết định số: 1936/QĐ-UBND ngày 24/4/2013 của UBND huyện Bình Chánh.
Quyết định về điều chỉnh Quyết định số 1552/QĐ-UBND ngày 09 tháng 04 năm 2011 của Ủy ban nhân dân huyện Bình Chánh |
Thứ tư: Tại thời điểm ông Tới đăng kí xin gia hạn ngày 24/1/2017, hiện trạng thửa đất 609 đang có căn nhà, hàng rào và cổng. Do không kiểm tra, nên không phát hiện thửa đất 609 đã thay đổi hiện trạng, có công trình trên đất của chị Dung. Việc kí duyệt gia hạn QSDĐ và đăng bộ sang tên cho ông Tới mà không kiểm tra hiện trạng có dấu hiệu không đúng trình tự thủ tục. Thậm chí, việc kí duyệt gia hạn QSDĐ là đất “trồng cây lâu năm”, trong khi hiện trạng trên đất đang có công trình là thể hiện trái thực tế và quy định pháp luật.
Thứ năm: Căn cứ Luật Đất đai năm 2013, việc chuyển nhượng QSDĐ giữa vợ chồng anh Tú, chị Dung với ông Tới chưa được đăng kí với cơ quan đăng kí đất đai và chưa được đăng kí vào sổ địa chính nên chưa có hiệu lực. Khoản 3, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy đinh: “Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp QSDĐ, góp vốn bằng QSDĐ, phải đăng kí tại cơ quan đăng kí đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng kí vào sổ địa chính”. Theo quy định này cho thấy, ông Tới chưa phải là người sử dụng đất hợp pháp thửa đất 609; không đủ điều kiện để tự mình thực hiện thủ tục đăng kí biến động; và việc gia hạn QSDĐ theo đơn của ông Tới là có dấu hiệu không đúng đối tượng.
Thứ sáu: Theo quy định tại điểm a, khoản 4 và khoản 6 Điều 95 Luật Đất đai năm 2013, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kí Hợp đồng công chứng, người sử dụng đất phải thực hiện thủ tục đăng kí biến động sang tên. Nếu không đăng kí sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Cụ thể: Phạt tiền từ 2 - 5 triệu đồng nếu không thực hiện đăng kí biến động theo quy định. Trong khi, từ khi kíhợp đồng chuyển nhượng đến khi ông Tới có đơn đăng kí biến động kéo dài hơn 5 năm, nhưng 4 cán bộ nói trên “dễ dàng” bỏ qua quy định thời hạn nói trên.
Với 6 dấu hiệu nêu trên, 4 cán bộ đã thực hiện việc gia hạn QSDĐ, đăng bộ sang tên, “tạo điều kiện” cho ông Tới có thửa đất 609 của vợ chồng anh Tú, chị Dung bán QSDĐ này lấy 20,5 tỉ đồng.
Anh Tú chia sẻ: “Với các tài liệu, chứng cứ thu thập được, căn cứ quy định của pháp luật, tôi đã có đơn tố giác ông Tới, bà Lệ, ông Nhân, ông Nhạc, ông Hữu và ông Thanh, về hành vi có dấu hiệu: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ. Tôi kính đề nghị quý cơ quan có thẩm quyền xác minh, làm rõ, xử lí nghiêm theo quy định của pháp luật đối với những hành vi này; đồng thời giúp gia đình tôi nhận lại quyền sử dụng thửa đất trên. Liên quan đến khoản vay 15 tỉ đồng, vợ chồng tôi sẽ hoàn trả đủ cho ông Tới kèm lãi suất cho vay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.
Trước đó, liên quan đến vụ án tranh chấp dân sự, ngày 4/5/2023, TAND huyện Bình Chánh đã ban hành Quyết định số: 13/2023/QĐDS-ST “tạm đình chỉ giải quyết vụ án”. Lí do: “Đã hết thời gian tạm ngừng phiên toà, mà chưa có kết quả thu thập thêm tài liệu chứng cứ, theo yêu cầu của Viện KSND huyện Bình Chánh”. Vụ án tiếp tục giải quyết khi Quyết định tạm đình chỉ không còn.
Ngày 27/4/2023, vợ chồng anh Tú, chị Dung đã có Đơn kiến nghị khẩn cấp, đề nghị TAND huyện Bình Chánh chuyển hồ sơ sang Cơ quan Cảnh sát điều tra. Đơn này đã được TAND huyện Bình Chánh tiếp nhận chiều 28/4/2023.
Ngoài ra, ngày 21/4/2023, chị Dung cũng đã có đơn khiếu nại đối với UBND huyện Bình Chánh về hành vi cập nhật đăng kí biến động thửa đất 609 cho ông Nguyễn Văn Tới thể hiện dấu hiệu trái quy định pháp luật. Do UBND huyện Bình Chánh chưa giải quyết nên ngày 21/6/2023, chị Dung có Đơn kêu cứu khẩn cấp và khiếu nại bổ sung.