Từ hòn than đến dòng điện
Xã hội 20/04/2022 10:38
Điện lụy vào than
Khai thác than càng khó, giá thành ngày một cao, nhưng chỉ được bán cho ngành điện theo gíá chỉ đạo để bình ổn giá điện, dù giá điện cứ một mình một ngựa. Lại thêm nạn đào than thổ phỉ, bán than lậu nhức nhối.
Được trời phú “Kì quan thế giới”, ngày nay để Quảng Ninh - thủ phủ ngành than ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại chắc chắn không thể bằng hầm lò than, núi đất thải mà do dịch vụ, du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Phát triển kinh tế biển cũng để phát triển du lịch bền vững.
Cuối tháng 3 vừa qua, hệ thống điện quốc gia thiếu hơn 3.000MW nhiệt điện do thiếu than, nhiều tổ máy phải dừng và giảm phát. Cung cấp than còn khó, nguy cơ thiếu điện từ tháng 4 sẽ trầm trọng. Kinh tế hồi phục, máy vận hành hết công suất, nhiều máy cùng chạy. Đỉnh điểm mùa Hè đến. Điện thường đã “nóng”, điện cho phục hồi kinh tế càng khó “hạ nhiệt”.
Chương trình điện hạt nhân dừng từ 2016. Điện tái tạo từ gió, mặt trời còn phập phù. Chương trình từ nay đến năm 2025 cần vận hành thêm khoảng 5.500MW điện tái tạo, gồm 4.000MW điện gió và 1.500MW điện mặt trời kèm theo hệ thống lưu trữ phù hợp để đáp ứng nhu cầu công suất trong các giờ cao điểm. Rút cuộc vẫn phải là nhiệt điện chạy than, than nội không đủ phải mua than ngoại. Muốn “không để thiếu điện”, phải nhập gấp than.
Sản xuất than |
Xuân thu nhị kì đều tổng kết, đánh giá, tầm nhìn… song bỗng tá hỏa rằng thiếu than, thiếu nhiều, trước hết cho điện, phải tức tốc nhập khẩu (NK). Tới 2025, càng cần nhiều than trong khi khai thác trong nước dậm chân tại chỗ, càng phải NK lớn.
Bây giờ với vỡ lẽ, không phải bất cứ loại than nào cũng dùng để đốt thành điện mà phải là than thích ứng với thiết kế của từng loại tổ máy, nên phải là than ngoại. Khi NK thì có chuyện thật như đùa. Giá FOB nhập từ Indonesia về Việt Nam là 73,6 USD/tấn, cộng với cước vận chuyển về cảng Cát Lái, Đồng Nai là 27 USD/tấn, giá thành mỗi tấn than NK là 100,6 USD. Trong khi than cám 10B2 của ta đang XK là 108,6 USD/tấn, cộng cả cước vận chuyển 14 USD/tấn, lên 122,6 USD/tấn.
Ngoại giao than và những ngổn ngang phia trước
Cấp tốc NK than, ngoại giao than lên ngôi. Ta đã đề nghị đại sứ Úc thúc đẩy để sớm đưa than về Việt Nam ngay trong tháng 4 này và Úc sẽ cung ứng ổn định cho ta than chất lượng tốt, giá hợp lí để có giá thành sản xuất điện ở mức phù hợp, bảo đảm đủ điện cho sản xuất cùng an sinh xã hội của ta.
Tiếp sau ta đề nghị đại sứ Nam Phi kết nối giữa các chủ than của họ với các đồng nghiệp Việt sớm kí hợp đồng, đưa gấp than về ngay tháng 4. Nam Phi sẽ bán cho Việt Nam than chất lượng tốt, hợp với công nghệ của các nhà máy nhiệt điện than và các ngành sản xuất của Việt Nam. Có đi có lại, Đại sứ đề nghị Việt Nam khơi dòng cho một số mặt hàng thế mạnh của Nam Phi vào ta.
Dịch bệnh dần được kiểm soát có hiệu quả, kinh tế thế giới phục hồi, nhu cầu than tăng dần; căng thẳng Nga - Ukraine dẫn đến nguồn cung than không đáp ứng nhu cầu… khiến giá than liên tục tăng kỉ lục, nay vẫn neo ở mức cao. Hộc tốc mang than về, nhiều khả năng phải mua than trên “thị trường giao ngay”, dễ bị bắt bí. Không thể có “tình hữu nghị thương trường”, họ vừa bán than chất lượng tốt cho ta lại vừa có giá hợp lí giúp ta có giá thành điện phù hợp, bảo đảm đủ điện và an sinh xã hội. Trong binh tình này, việc NK than sẽ không thể ăn đong từng chuyến mà phải có “chiến lược”, nhưng hàng loạt vấn đề sẽ nảy sinh không dễ hóa giải.
Thực sự là năm 2011, ta đã thí điểm NK 9.570 tấn từ Indonesia. Từ 2015, ngành than đổi chiều từ XK ròng sang NK than chủ yếu cho các nhà máy nhiệt điện mới ở miền Trung và miền Nam, song số lượng chưa lớn như dự định năm nay và phải NK gấp để phòng cho thiếu điện gay gắt. Trước đây ta chưa thực sự bước vào “chợ” than thế giới, trong khi thị trường này đã do các tập đoàn tài chính - thương mại lớn trên thế giới định đoạt từ lâu. Nay, chân ướt chân ráo bước vào cùng với việc hạn chế về năng lực và kinh nghiệm đầu tư khai thác nguồn than ở nước ngoài, ta không dễ tiếp cận nguồn than khối lượng lớn, ổn định, chất lượng. Vì vậy, cần có đủ đội ngũ sành sỏi buôn bán đối ngoại và kĩ thuật về than chuyên dùng điện, than mỡ, than cốc… để đạt được các hợp đồng cạnh tranh, tránh rủi ro, với đa dạng các loại hợp đồng NK than dài hạn, theo năm hay từng chuyến với tỉ lệ từng loại phù hợp.
Logistics yếu và thiếu, giao nhận, vận tải chuyên dùng cho than NK với khối lượng lớn, dồn dập… không dễ. Các cảng tại khu vực phía Nam chưa có cảng nào có thể tiếp nhận tàu có tải trọng đến cỡ Panamax (72.000 tấn). Biết vậy, song không thể làm ngay.
Mới đây tại COP 26, Việt Nam cùng với nhiều quốc gia trong đó có Nam Phi đã cam kết đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Với Nam Phi vớ được khách sộp, họ ung dung. Song với ta, khi NK than thành chiến lược dài hạn thì không thể “cùng với Nam Phi còn nhiều cơ hội để tích cực phát triển hợp tác trong hoạt động thương mại than”.
Dòng điện rồi đây sáng, mờ hay vụt tắt sẽ phụ thuộc vào than ngoại. Nước ta đã, đang và còn phụ thuộc đủ thứ ngoại, nay cõng thêm than thì chưa biết bao giờ mới thoát dựa bên ngoài.
Trong khi thiên hạ đóng cửa mỏ than thì ta phải cố moi. Rồi phải lọc trong than nội có loại nào phù hợp với thiết kế cho từng nhà máy điện, cho các nhu cầu khác để tiết giảm NK cũng không dễ. Sự thể này có phần do ta vô tư rước về các nhà máy nhiệt điện đốt than, không ngoại trừ trong đó có cả “đống sắt thải” họ đang tìm cách tống khứ…