Đông y điều trị ung thư như thế nào?
Sức khỏe 10/10/2018 09:10
Tuy nhiên, vì nhiều lí do khác nhau sự hiểu biết của không ít người về vấn đề này còn khá hạn hẹp. Vậy, trong thời buổi khoa học kĩ thuật phát triển như hiện nay, Đông y giải quyết căn bệnh tai quái này như thế nào?
Trước hết, ung thư, hiểu theo nghĩa của danh từ Cancer, Carcinoma, không phải là căn bệnh của riêng thời hiện đại mà từ xa xưa nó đã từng xuất hiện trong xã hội loài người. Nói như vậy để khẳng định rằng, nền y học cổ truyền trên thế giới nói chung và đông y nói riêng đã từng biết và từng tìm mọi phương cách để xử trí căn bệnh này. Trong y học cổ truyền phương Đông, bệnh danh Ung thư đã có từ rất lâu đời nhưng về bản chất nó được dùng để chỉ các loại mụn nhọt nói chung và sau này còn được sử dụng để chỉ một số bệnh lí khác như lao hạch, lao xương khớp, viêm tắc động mạch. Còn thực chất căn bệnh mà ngày nay y học hiện đại gọi là Ung thư (mượn danh từ Ung thư theo âm Hán - Việt của Đông y để dịch các từ Cancer, Carcinoma) lại thuộc vào phạm vi các chứng Nham, chứng Thũng lựu của y học cổ truyền.
Thứ hai, nguyên tắc trị liệu bệnh ung thư của đông y ra sao? Có thể nói một cách ngắn gọn là phải toàn diện. Nguyên tắc này được xây dựng dựa trên các học thuyết m dương, Ngũ hành và Thiên nhân hợp nhất. Cổ nhân quan niệm rằng: Cơ thể con người là một khối thống nhất, giữa con người và thiên nhiên. Nhân thể là một chỉnh thể; Thiên, Địa và Nhân cũng là một chỉnh thể. Vậy nên, trong trị liệu bệnh tật nói chung và ung thư nói riêng, người thầy thuốc phải tuân thủ nguyên tắc toàn diện, có nghĩa là phải chú trọng kết hợp điều trị giữa tại chỗ và toàn thân (đa duy cầu hiệp), giữa gián tiếp nâng cao sức đề kháng của cơ thể với tác động trực tiếp vào các nhân tố gây bệnh (phù chính và công tà), giữa các biện pháp dùng thuốc (uống trong, xông, xoa, bối, đắp... bên ngoài) và các biện pháp không dùng thuốc (châm cứu, xoa bóp, tập luyện khí công dưỡng sinh, thay đổi môi trường và thói quen sinh hoạt, cải thiện đời sống tâm lí tinh thần...), giữa trị liệu theo bệnh danh (tên bệnh) và theo bệnh cơ (cơ chế bệnh sinh hay còn gọi là biện chứng luận trị), giữa trị liệu căn nguyên và trị liệu triệu chứng (trị bản và trị tiêu)...
Thứ ba, những biện pháp cơ bản trị liệu ung thư của đông y là gì? Gồm 4 biện pháp lớn (đại pháp): Phù chính bồi bản, khứ tà kháng ung, phù chính khứ tà và đối chứng trị liệu.
* Phù chính bồi bản: Theo đông y, ung thư là một bệnh mạn tính, đa phần thuộc hư chứng, đặc biệt là khi phải sử dụng đến các biện pháp như phẫu thuật, hoá trị liệu, xạ trị liệu... Vậy nên, trước hết và nhất thiết phải chú ý phù chính bồi bản, có nghĩa là phải chú ý nâng cao sức đề kháng của cơ thể thông qua một số biện pháp trọng yếu như bổ ích khí huyết, ích khí kiện tì, dưỡng âm sinh tân, tư âm bổ huyết, ôn thận tráng dương, kiện tì bổ thận... Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, các biện pháp này có tác dụng nâng cao năng lực miễn dịch của cơ thể, cải thiện công năng tạo huyết của tuỷ xương, thúc đẩy quá trình chuyển hoá các chất, điều tiết hệ thống nội tiết, tăng cường tác dụng của thuốc kháng ung, giảm thiểu các tác dụng không mong muốn của hoá xạ trị liệu...
* Khứ tà kháng ung: Theo đông y, ung thư tuyệt đại đa số là có biểu hiện “bản hư tiêu thực”, có nghĩa là sức đề kháng của cơ thể thì suy nhược trong khi các nhân tố bệnh lí thì đang phát huy mạnh mẽ sức tàn phá. “Tà” ở đây được hiểu là các nguyên nhân gây bệnh, các tế bào ung thư và các rối loạn bệnh lí toàn thân hoặc tại chỗ do chúng gây nên. Bởi vậy, trong trị liệu, không những phải phù chính bồi bản mà còn phải chú ý khứ tà kháng ung, có nghĩa là phải tác động trực tiếp vào các nhân tố gây bệnh bằng các biện pháp như thanh nhiệt giải độc, hoá đàm trừ thấp, công hạ trục thuỷ, nhuyễn kiên tán kết, tiêu thũng chỉ thống, sơ can lí khí, hoạt huyết hoá ứ... Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, các biện pháp này có tác dụng trực tiếp tiêu diệt hoặc ức chế sự phát triển của tế bào ung thư, làm giảm các triệu chứng như giảm đau, chống viêm, kháng khuẩn, giải độc, hạ sốt, chống phù nề, cầm máu, chống ngưng tập tiểu cầu, phòng chống di căn...
* Phù chính khứ tà: Thực chất đây là đại pháp mang tính kết hợp giữa hai biện pháp đã nêu ở trên nhưng đặt ra để nhấn mạnh sự phối hợp linh hoạt và biện chứng giữa chúng. Phù chính là để tăng cường thể chất, nâng cao năng lực chống đỡ tật bệnh của cơ thể, từ đó mà tiêu trừ bệnh tà. Khứ tà là sử dụng các biện pháp tác động trực tiếp vào nguyên nhân gây bệnh, phòng ngừa và xử lí các biến chứng, ngăn chặn quá trình phát triển của bệnh, giúp cho cơ thể dần dần hồi phục sức đề kháng. Phù chính khứ tà là căn cứ vào thực tế tranh đấu giữa “chính” và “tà”, vào tình hình biến hoá thịnh suy của quá trình bệnh lí khách quan mà phân rõ tiêu (ngọn) và bản (gốc), hư và thực, chủ và thứ, trước và sau... để từ đó vận dụng các biện pháp trị liệu cho phù hợp. Nhìn chung, ung thư giai đoạn đầu thường lấy khứ tà làm chủ, phù chính là phụ; giai đoạn giữa kết hợp vừa khứ tà vừa phù chính (công bổ kiêm thi); giai đoạn muộn lấy phù chính làm chủ, khứ tà là phụ.
* Đối chứng trị liệu: Trong quá trình phát triển của bệnh ung thư có thể xuất hiện nhiều triệu chứng khác nhau như phát sốt, xuất huyết, đau nhức, suy nhược... Bởi vậy, bên cạnh việc tuân thủ những nguyên tắc trị liệu cơ bản như đã nêu ở trên, giống như y học hiện đại, y học cổ truyền cũng sử dụng những biện pháp mang tính chất điều trị triệu chứng, có nghĩa là những bệnh lí ung thư do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng khi xuất hiện những triệu chứng giống nhau thì cách xử lí cũng tương tự nhau. Tuy nhiên, theo quan niệm của y học cổ truyền, ngay cả khi điều trị triệu chứng cũng cần phải phân biệt từng thể loại cụ thể để lựa chọn các vị thuốc, bài thuốc cho phù hợp. Ví như, cùng là triệu chứng phát sốt nhưng có thể do ngoại cảm tà nhiệt, do thấp nhiệt uất kết, do âm hư hoả vượng... thì cách xử lí cũng không giống nhau.
Thứ tư, những phương pháp trị liệu ung thư cụ thể của đông y như thế nào? Có thể chia thành hai nhóm lớn: Liệu pháp dùng thuốc và liệu pháp không dùng thuốc. Trên thực tế lâm sàng, Đông y thường kết hợp cả hai nhóm phương pháp này.
* Liệu pháp dùng thuốc có thể chia ra nhiều loại: Dùng cổ phương, tân phương hoặc kinh nghiệm dân gian; dùng độc vị hoặc nhiều vị; dùng thuốc uống trong, tiêm truyền (với những dạng thuốc bào chế theo công nghệ hiện đại) hoặc xông, xoa, bôi, đắp... bên ngoài; dùng thuốc dưới dạng sắc, cao, đơn, hoàn, tán... của y học cổ truyền hoặc dưới dạng các chế phẩm của y học hiện đại như viên nang, viên nén, sirô, trà tan, thuốc tiêm, dịch truyền...; dùng thuốc dưới dạng toàn thể theo chỉ đạo của lí luận dược học cổ truyền hoặc dùng dưới dạng tinh chế, chiết xuất hoạt chất theo lí luận của dược học hiện đại...
* Liệu pháp không dùng thuốc như: Thay đổi môi trường sống, điều kiện và thói quen sinh hoạt (khởi cư liệu pháp), cải thiện đời sống tâm lí tinh thần (thất tình liệu pháp), sử dụng các món ăn - bài thuốc (dược thiện liệu pháp), châm cứu xoa bóp, tập luyện khí công dưỡng sinh, thực hiện các thủ thuật ngoại khoa Đông y...
Như vậy, có thể thấy, các biện pháp trị liệu ung thư của Đông y là hết sức phong phú và mang tính hệ thống. Vấn đề còn lại là ở chỗ, người thầy thuốc Đông y phải biết lựa chọn và vận dụng các liệu pháp đó một cách tinh tế, hợp lí và có hiệu quả tuỳ theo từng người bệnh cụ thể “nhân nhân chế nghi”, tuỳ theo từng điều kiện và hoàn cảnh cho phép “nhân địa chế nghi” và tuỳ theo từng thời điểm, từng giai đoạn nhất định “nhân thời chế nghi”. Và đương nhiên, đông y hiện đại phải biết kết hợp chặt chẽ với tây y để từng bước chứng minh, cải tiến, đổi mới và sáng tạo ra những liệu pháp mới nhằm không ngừng nâng cao chất lượng điều trị. Tuy nhiên, điều quan trọng là, không vì thế mà Đông y đánh mất dần đi bản sắc cổ truyền độc đáo của mình.