Chí khí người chiến sĩ trong “Lửa đạn ngục tù”
Tuổi cao gương sáng 05/03/2019 08:53
Ngoài việc tuyển chọn 15 bài thơ ông sáng tác trong tù những năm 1969 -1973, còn có chùm bút kí, ghi chép của các nhà văn, nhà báo viết về cựu tù Tăng Đình Thích gây xúc động và sự chú ý của người đọc, nhất là những người cùng trang lứa với tác giả một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Ông Tăng Đình Thích sinh năm 1950, nhập ngũ khi chưa tròn 17 tuổi. Sau thời gian ngắn huấn luyện trên đất Bắc, ông được điều động vào chiến trường B2. Cuối năm 1968, trong một trận đánh ác liệt, ông bị địch bắt giam tại Biên Hoà, sau đó đày ra nhà tù Phú Quốc.
Trong tù, ông mang tên Đặng Trung Hiếu. Tại đây, ông may mắn được ở chung với ông Tư Sang (nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang); đại tá Tô Diệu (nguyên Phó cục trưởng Cục Địch vận - Tổng cục Chính trị); Nguyễn Tấn Phương (Nguyên Vụ trưởng Vụ Văn nghệ - Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương). Được mọi người dìu dắt, giúp đỡ ông học văn hoá, chính trị và làm thơ. Năm đó Tăng Đình Thích tròn 20 tuổi.
Vốn có tâm hồn nghệ sĩ, ông không ngồi yên giữa bốn bức tường xám của nhà tù, mà tập làm thơ, học thơ Bác Hồ, thơ Tố Hữu, đọc thuộc lòng cả 3.254 câu thơ trong “Truyện Kiều” của Đại thi hào Nguyễn Du. Hằng ngày được chứng kiến những cán bộ, chiến sĩ của ta không may sa vào tay địch nhưng vẫn một lòng trung kiên, bất khuất “Rắn như thép, vững như đồng”, giữa chốn ngục trần gian vẫn tin tưởng vào ngày mai tươi sáng. Đêm đêm ông khe khẽ hát “Bài ca hi vọng” của nhạc sĩ Văn Ký. Rồi mày mò tập làm thơ, gieo vần, chọn lựa tứ thơ, bò tới các “chuồng cọp” nhờ đồng đội, các bạn tù góp ý sửa chữa. Được đồng chí Tư Sang, các bạn tù Nguyễn Tấn Phương, Nguyễn Xuân Tam (người Diễn Hoa, Diễn Châu) động viên khuyến khích, ông viết được một chùm thơ 15 bài.
Những vần thơ sáng tác ra khi bị kẻ thù tra tấn, cận kề cái chết nhưng vẫn lạc quan yêu đời và thật khảng khái: Ngục tù nổi lửa quyết vùng lên/ Chiến đấu tay không vẫn chí bền/ Tinh thần đoàn kết thêm sức mạnh/ Vùng lên thề quyết giữ thanh danh. Ghi lại những trận đòn tra tấn của kẻ thù, ông viết: Quân thù tàn bạo đê hèn/ Dùi đâm, điện giật, búa kìm, đóng đinh/ Con thề giữ trọn thanh danh/ Noi gương bất khuất người anh dẫn đường… Giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng, lạc quan, tin tưởng là phẩm chất của các chiến sĩ trong ngục tù: Đắng cay chung hướng cùng nhau/ Trung thành với Đảng mai sau mát lòng/ Bao thử thách xiềng gông máu đỏ/ Biết bao ngày đau khổ thịt da/ Dù cho tra tấn gông cùm/ Đấu tranh quyết tử, quyết vùng đứng lên…
Trong lao tù, Tăng Đình Thích vừa làm thơ, vừa tận dụng các loại vật liệu hư hỏng để làm ra các loại nhạc cụ như sáo, nhị, đàn bầu. Những buổi tập trung, anh em ngâm bài thơ “Căm thù uất hận” với tiếng sáo vi vút hay tiếng đàn nhị, đàn bầu đệm cho những vở chèo như “Đường về mặt trận”, “Bàn giao giữa đường”. Tiếng đàn, tiếng sáo, bài thơ sáng tác trong lao tù không chỉ củng cố tinh thần và nghị lực cho anh em tù mà còn góp phần lớn vào công tác địch vận. Bài thơ “Lá thư tâm tình” có tiếng sáo đệm của ông với những lời tha thiết: Về đi thôi anh lính cộng hoà trong đêm khuya vắng khiến nhiều người lính chế độ cũ cảm động. Có người lính nói nhỏ: “Các ông cứ thổi, cứ ngâm thơ đi, tụi tôi nghe thích lắm!”.
Năm 1970, kẻ thù biết sắp có hiệp định Paris, chúng kiểm tra, đàn áp gắt gao. Với lòng căm thù địch sâu sắc, Tăng Đình Thích sáng tác một chùm 3 bài thơ nói lên ý chí kiên cường của người chiến sĩ cách mạng, tình yêu quê hương, đất nước và niềm tin vào Đảng kính yêu, Bác Hồ vĩ đại. Tháng 3/1973, Tăng Đình Thích được trao trả tù binh theo Hiệp định Paris, ông phục viên về quê xã Diễn Đồng, huyện Diễn Châu với tỉ lệ thương tích 71%, thương binh 2/4. Ông mang các loại nhạc cụ làm trong tù tặng Bảo tàng cách mạng Việt Nam, chỉ giữ lại cây sáo trúc và cây đàn nhị làm kỉ niệm.
Bài và ảnh Lê Hoài Thung